banner
Thứ 7, ngày 27 tháng 7 năm 2024
TÀI LIỆU HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA " 80 năm đề cương văn hóa Việt Nam 1943-2023" (Tệp số 1: Từ đầu cho đến trang 479)
26-2-2023

(Tệp số 1: Từ đầu cho đến trang 479)
 “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 NỀN TẢNG LÝ LUẬN VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
NGUYỄN VĂN HÙNG*
C
ách đây 80 năm, vào tháng 2/1943, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam1, một văn kiện quan trọng do Tổng Bí thư Trường Chinh chấp bút soạn thảo. Ra đời trong bối cảnh của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đề cương là cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa, xác lập văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa). Thời điểm và bối cảnh ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã cho thấy tư duy, tầm nhìn và sự quan tâm sâu sắc của Đảng ta trong phát triển văn hóa. Từ điểm khởi nguồn này, trải qua tiến trình lịch sử với rất nhiều biến động, việc phát triển các giá trị mang tính cương lĩnh của Đề cương vẫn giữ nguyên sức sống và có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Vì vậy, ngày hôm nay, tại Hội thảo quan trọng này, chúng ta sẽ cùng nhìn lại và khẳng định nền tảng lý luận, giá trị, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam, từ đó tìm ra những định hướng, giải pháp góp phần khơi dậy khát vọng cống hiến, tạo động lực chấn hưng văn hóa, phát triển toàn diện con người Việt Nam trong bối cảnh mới nhằm hiện thực hóa Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, triển khai có hiệu quả Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

_____________

* Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
1. Trong một số trường hợp chúng tôi gọi tắt là Đề cương.
năm 2021 và cụ thể hóa lộ trình triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.
1. Giá trị  lý luận của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Ngay trong phần mở đầu, với việc xác định rõ phạm vi và nội hàm của văn hóa bao gồm ba thành tố cơ bản là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, Đề cương về văn hóa Việt Nam thể hiện tư duy mạch lạc và sự tiến bộ vượt thời đại trong bối cảnh xã hội Việt Nam vào thập niên 40 của thế kỷ XX. Không dừng lại ở đó, trên cơ sở vận dụng phương pháp luận mácxít, Đề cương còn khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố cơ bản của văn hóa cũng như giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong khi các hoạt động về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật thẩm thấu, bổ sung, chi phối lẫn nhau để tạo nên tổng thể nền văn hóa dân tộc thì toàn bộ nền văn hóa đó cũng chính là một “mặt trận”, có mối quan hệ ngang hàng, hữu cơ, mật thiết với mặt trận kinh tế và chính trị.
Luận điểm “văn hóa là một mặt trận” được coi là tuyên ngôn của Đảng về sứ mệnh và vị thế của văn hóa, đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn và cách tiếp cận tổng thể của Đảng ta đối với việc giải quyết các yêu cầu và mục tiêu lớn của đất nước. Trong bối cảnh lịch sử đương thời, luận điểm này là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức, kiến tạo nền tảng và nguồn sức mạnh tinh thần cùng với các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, góp phần phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ nhận thức căn bản này, đối với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa, Đề cương khẳng định mặt trận văn hóa sẽ tiếp tục phát huy vai trò then chốt của mình thông qua cuộc cách mạng văn hóa với ba nguyên tắc vận động căn bản, gồm: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Ngoài mối quan hệ khăng khít, hữu cơ với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nền văn hóa mới mà Đề cương xác lập còn thể hiện giá trị lý luận cấp tiến khi đặt con người ở vị trí trung tâm. Vị thế của con người trước hết nằm ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Quan trọng hơn nữa, con người, hay nói chính xác hơn là quần chúng nhân dân, chính là chủ thể của văn hóa, là lực lượng sáng tạo, trao truyền, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa. Nền văn hóa mới mà Đảng ta hướng tới chính là nền văn hóa thuộc về nhân dân và do nhân dân xây dựng, phát triển vì cuộc sống lành mạnh, phong phú của nhân dân.
Tiếp đó, từ góc nhìn của chủ nghĩa Mác, Đề cương về văn hóa Việt Nam coi văn hóa như một lĩnh vực không ngừng biến đổi, với sự nối tiếp liên tục từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Văn hóa hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của con người. Văn hóa bám rễ vào cội nguồn lịch sử và không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bồi đắp và làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa, ngay cả giá trị truyền thống cũng không tồn tại một cách bất biến mà không ngừng được bổ sung và tái định hình để phù hợp với cuộc sống đang diễn ra. Việc lựa chọn các giá trị phù hợp để kế thừa dựa trên tinh thần khách quan và tư duy phê phán là một yêu cầu quan trọng đối với phát triển văn hóa. Thái độ khoa học, tiến bộ này của Đề cương cung cấp cho chúng ta một nền tảng lý luận quan trọng về động năng và tính kế thừa của văn hóa.
Với những tư tưởng, quan điểm ngắn gọn, súc tích trên đây, Đề cương về văn hóa Việt Nam “xứng đáng là một văn kiện đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng Việt Nam”1. Ba năm sau ngày Đề cương ra đời, từ điểm tựa lý luận của văn kiện này, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc vào ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hơn nữa vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc thông qua lời khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Kể từ thời điểm này cho đến năm 1975, đường lối văn hóa kháng chiến - kiến quốc dần hình thành và hoàn thiện dựa trên nền tảng căn bản mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề ra.
Trong công cuộc xây dựng đất nước sau ngày giải phóng, đặc biệt kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, nhận thức của Đảng về vai trò,

_____________

1. Phạm Quang Nghị: “Đề cương văn hóa Việt Nam và công cuộc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, in trong kỷ yếu Hội thảo 60 năm Đề cương văn hóa Việt Nam (1943-2003), Viện Văn hóa - Thông tin, 2004, tr.43.
vị thế của văn hóa cũng như các mục tiêu phát triển văn hóa cụ thể đã có những chuyển biến rõ rệt trước yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới. Tuy vậy, các nguyên lý và định hướng căn bản trong chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa vẫn thể hiện sự kiên định với nền tảng lý luận và tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã xác định, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiếp đó, quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” được nhấn mạnh trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng (năm 1996).
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thông qua như một bản chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với việc đề ra 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII là sự kế thừa sâu sắc những quan điểm của Đảng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam và phát triển những giá trị lý luận này lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Cụ thể, so với Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, bao quát hơn về văn hóa, về văn hóa và phát triển, về di sản văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa Việt Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Quan điểm này được làm sâu sắc hơn trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết khẳng định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Năm 2020, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, trong đó nhấn mạnh: “xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, đây vẫn là một trong những vấn đề cơ bản của đất nước giai đoạn mới. Muốn phát triển bền vững đất nước, không chỉ văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, mà phải xây dựng và phát triển văn hóa, con người - tạo sức mạnh nội sinh cho sự phát triển bền vững.
Như vậy, trải qua 80 năm, các luận điểm của Đề cương xác định về vai trò, sứ mệnh của văn hóa như nguồn lực nội sinh cho phát triển; sự gắn kết của văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội; ý nghĩa trung tâm của con người trong phát triển văn hóa; và các nguyên tắc vận động của văn hóa đã được chứng minh là những giá trị nền tảng cốt lõi, định hình đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước những biến động không ngừng của bối cảnh lịch sử và các yêu cầu phát triển mới liên tục xuất hiện, các luận điểm của Đề cương vẫn còn nguyên giá trị, sức ảnh hưởng của mình và tiếp tục được vận dụng, kế thừa, bổ sung và hoàn thiện trong hệ thống các văn kiện của Đảng về văn hóa. Quá trình chuyển dịch từ ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng, khoa học của nền văn hóa cách mạng cho đến các giá trị tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế cho thấy vị thế và tầm ảnh hưởng của
Đề cương về văn hóa Việt Nam như một cương lĩnh khởi nguồn cho việc xác lập và hoàn thiện tư duy lý luận về phát triển văn hóa, phát triển con người ở Việt Nam.
2. Giá trị thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” trong phát triển văn hóa, xây dựng con người
Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa lớn lao trong việc chỉ đạo hoạt động văn hóa - xã hội ở nước ta. Việc vận dụng và phát huy tinh thần, luận điểm, nguyên tắc về phát triển văn hóa được đặt ra trong Đề cương với ý nghĩa như một cương lĩnh về văn hóa của Đảng đã thực sự mang lại nhiều chuyển dịch và kết quả quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong suốt tám thập niên qua.
  • Mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa từng bước được điều chỉnh theo hướng hài hòa, lành mạnh giúp phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chủ thể sáng tạo của nhân dân
Ngay từ khi ra đời, với việc đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển văn hóa, Đề cương về văn hóa Việt Nam là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Qua tổng kết lý luận và tình hình thực tiễn, mối quan hệ giữa các chủ thể văn hóa ở nước ta từng bước được điều chỉnh theo hướng hài hòa và lành mạnh hơn thông qua việc sử dụng hợp lý các công cụ quản lý hiện đại và đổi mới cơ chế, phương thức quản lý.
Với vai trò là người lãnh đạo sự nghiệp văn hóa, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận nhằm thể chế hóa các quan điểm, tạo lập nền tảng và định hướng cho việc xây dựng khuôn khổ chính sách văn hóa ở Việt Nam. Trong khi đó, Nhà nước từ vị trí là người chỉ huy đã chuyển sang vai trò của nhà quản lý và bảo trợ. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cũng thực hiện việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc thống nhất về hành chính quốc gia và đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, các cơ chế và phương tiện để thúc đẩy và hỗ trợ sự tham gia của nghệ sĩ, các nhà quản lý văn hóa và người dân nói chung vào các đối thoại chính sách đã được xây dựng và phát triển.
Từ sự chuyển dịch mang tính cấu trúc này, vai trò của hệ thống chính sách, pháp luật được đề cao ở nước ta. Các văn bản pháp luật với vai trò là công cụ điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể trong từng lĩnh vực cụ thể của khu vực văn hóa được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Trong lĩnh vực văn hóa, hiện Việt Nam đã có 5 luật (Luật điện ảnh, Luật di sản văn hóa, Luật quảng cáo, Luật sở hữu trí tuệ, Luật thư viện), 50 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư, thông tư liên tịch được điều chỉnh trực tiếp1. Các đạo luật này đã từng bước tạo ra một khuôn khổ pháp lý tương đối nhất quán và hợp lý, tạo lập môi trường vận hành thuận lợi cho các hoạt động văn hóa. Đặc biệt, các văn bản hiện hành đã góp phần thể chế hóa và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng, tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa của người dân.
  • Phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam được phát huy, hướng tới phát triển con người toàn diện
Mỗi cá nhân công dân Việt Nam, dù ở vị trí lãnh đạo, quản lý, thực hành sáng tạo hay công chúng, đều là nhân tố có sức ảnh hưởng đến quá trình phát triển văn hóa. Phát triển con người và phát triển văn hóa là hai mục tiêu gắn kết, không tách rời nhau. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Nền tảng tinh thần của Đề cương trong nhiều thập kỷ đã được bổ sung và phát triển qua các văn kiện sau này của Đảng, một số chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người Việt Nam, bao gồm cả các giá trị truyền thống (yêu nước, nhân ái, đoàn kết...) và các giá trị hiện đại (năng lực sáng tạo, tôn trọng pháp luật...), đã từng bước được thể chế hóa, đưa vào các văn bản pháp luật, quy ước, hương ước làng, xã, quy chế, quy tắc, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức. Các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, các chương trình nghiên cứu, v.v. được mở rộng nhằm nhận

_____________

1. Xem Lê Thanh Liêm: Đánh giá về pháp luật cho phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nội, 2022.
diện, tuyên truyền và nâng cao nhận thức của xã hội về hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực của con người Việt Nam.
Công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo được chú trọng, trong đó kết hợp giữa dạy chữ, dạy kỹ năng, giáo dục nghệ thuật, năng lực cảm thụ thẩm mỹ với rèn luyện thể chất, góp phần nâng cao trí tuệ, cải thiện tầm vóc con người Việt Nam. Ngoài hệ thống giáo dục chính quy, hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở cũng được đầu tư như một phương thức để nâng cao trình độ thẩm mỹ, phát triển kỹ năng và tri thức cho người dân ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Đặc biệt, hệ thống thiết chế văn hóa được Nhà nước chú trọng đầu tư ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã góp phần không nhỏ vào việc thu hẹp khoảng cách trong hưởng thụ văn hóa giữa các bộ phận cư dân, giúp bảo đảm nguyên tắc công bằng, dân chủ hóa trong phát triển văn hóa.
Môi trường văn hóa được cải thiện, đặc biệt là tại các thiết chế văn hóa, các đơn vị, tổ chức văn hóa. Kết quả này đóng góp không nhỏ vào việc phát huy năng lực của chủ thể văn hóa và nâng cao chất lượng của sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Hơn thế nữa, việc xây dựng môi trường văn hóa được quan tâm một cách thực chất và có chiều sâu đã và đang tạo ra diện mạo mới cho đời sống văn hóa cơ sở, kiến tạo các quan hệ hợp tác lành mạnh, phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân.
- Văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy hiệu quả, đi cùng với việc đẩy mạnh giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế
Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Vận dụng các nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong suốt những thập niên qua, việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Cơ chế xử lý hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế đã từng bước được xác lập và vận hành trên thực tế. Nhiều di sản văn hóa của Việt Nam được ghi danh vào danh mục quốc gia, quốc tế như một cách ghi nhận và bảo tồn các giá trị lịch sử, giáo dục và sự đặc sắc về nghệ thuật. Bên cạnh đó, di sản văn hóa đã và đang trở thành một yếu tố cốt lõi của quá trình chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa thông qua xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.
Trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, vai trò của cộng đồng chủ thể được phát huy. Nhà nước tham gia vào quá trình này với tư cách là người bảo trợ và tạo điều kiện thông qua việc ban hành các cơ chế ưu đãi, khuyến khích và đãi ngộ đối với các cá nhân và cộng đồng liên quan.
Đi cùng với việc bảo tồn văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại là một xu thế tất yếu, đặc biệt được đẩy mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong thời gian qua, từ việc đóng cửa với thế giới, Việt Nam đã có sự chuyển dịch tích cực sau khi ban hành chủ trương đổi mới. Chúng ta đã chủ động mở cửa hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, mở cửa thị trường văn hóa cho các doanh nghiệp nước ngoài.... Trong suốt quá trình này, nhiều giá trị văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới đã từng bước du nhập vào Việt Nam, được người dân đón nhận và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, thông qua vai trò của các tổ chức quốc tế, đội ngũ cán bộ văn hóa, giới thực hành và các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã có cơ hội tham gia các hoạt động trao đổi văn hóa, nâng cao năng lực và hiểu biết về văn hóa các nước, từ đó rút ra các bài học để áp dụng trong nước.
 Ở chiều hướng ngược lại, nhiều hoạt động nhằm giới thiệu và quảng bá văn hóa Việt Nam, nâng cao thương hiệu và vị thế của quốc gia trên trường quốc tế cũng được thực hiện (Tuần lễ văn hóa Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam và các sự kiện khác). Việc khai thác các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển các sản phẩm văn hóa phục vụ xuất khẩu cũng được đẩy mạnh như một cách thức để gia tăng giá trị kinh tế của văn hóa và quảng bá hình ảnh của đất nước.
- Việc gắn kết văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội có chuyển dịch tích cực về nhận thức và hành động
Việc hiện thực hóa quan điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam về mặt trận văn hóa tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với mặt trận chính trị và kinh tế luôn được Đảng ta chú trọng. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã khẳng định: “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế”. Xây dựng văn hóa trong kinh tế là một bước tiến cả trong tư duy lý luận của Đảng cũng như trong triển khai tổ chức thực hiện ở nước ta, nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa văn hóa và kinh tế; có giá trị thiết thực và ý nghĩa lâu dài thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển bền vững trong những năm tới.
Từ nhận thức này, các hành động cụ thể đã được thực hiện nhằm khai thác tiềm năng kinh tế của văn hóa, phát huy tối đa vai trò và đóng góp của lĩnh vực này. Minh chứng điển hình cho nỗ lực này chính là việc ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vào năm 2016. Chiến lược đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa khai thác và chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ có sức hấp dẫn. Các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đã tích cực triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Những thay đổi tích cực về thể chế chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế trong văn hóa và khuyến khích sự tham gia của các thành phần sở hữu, sự đầu tư nguồn vốn trong và ngoài nước vào các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng GDP của cả nước. Theo thống kê, so với mức GDP chiếm 2,68% năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam ước đạt 3,61% GDP cả nước năm 20181. Sự thay đổi này cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa bước

_____________

1. Tham khảo Nguyễn Thị Thu Phương (Chủ biên): Định vị các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
đầu phát huy hiệu quả tài nguyên văn hóa và chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Nhìn chung, trong suốt tám thập niên qua, dưới ánh sáng của Đề cương về văn hóa Việt Nam, quá trình phát triển văn hóa và con người Việt Nam đã có những bước tiến tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Vai trò của văn hóa như một nguồn sức mạnh nội sinh cho sự phát triển toàn diện của kinh tế - xã hội đất nước từng bước được hiện thực hóa. Văn hóa có đóng góp như một lĩnh vực độc lập và như một thành tố nằm xuyên suốt trong các lĩnh vực khác. Các nỗ lực của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc đổi mới thể chế, chính sách, phương thức quản lý đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong mối quan hệ giữa các chủ thể, từ đó giúp phát huy năng lực và phẩm chất của con người Việt Nam, nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hóa và phát huy được các giá trị văn hóa. Đây là phương hướng phát triển tương ứng với khuôn khổ và mô hình phổ biến trên phạm vi quốc tế hiện nay, cũng phù hợp với bối cảnh cụ thể của Việt Nam.
Tuy nhiên, xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam, một số hạn chế trong vận dụng giá trị và nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa vẫn đang tồn tại khiến cho các quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ, chưa thực sự thấm sâu trong các tầng lớp nhân dân. Việc quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa và con người có lúc, có nơi chưa đạt yêu cầu đề ra và còn thiếu khoa học, đồng bộ. Cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan các cấp, giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân chưa chặt chẽ. Sự tham gia của các chủ thể cấp cơ sở, đặc biệt là những người chịu tác động trực tiếp của hệ thống thể chế, chính sách, còn mang tính hình thức. Môi trường văn hóa có lúc, có nơi chưa lành mạnh, có mặt xuống cấp. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế còn chưa được quan tâm đúng mức. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa cải thiện hiệu quả tình trạng bất bình đẳng giữa khu vực công lập và tư nhân trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ từ Nhà nước.
3. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” - động lực phát triển văn hóa, xây dựng con người theo hướng bền vững
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ khẳng định cần phải “đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam” mà còn nhấn mạnh khẩn trương “nghiên cứu xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam thời kỳ mới”1. Trước những thời cơ, thách thức và yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (2021) nhấn mạnh: “Phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.
Trước những vấn đề đặt ra từ thực tế, nhằm hiện thực hóa đường lối của Đảng, Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, và tiếp tục đi sâu tạo đột phá về thể chế, chính sách trong quá trình triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, việc kế thừa, phát huy các giá trị, nguyên tắc của Đề cương về văn hóa trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo hướng bền vững là vô cùng quan trọng và thiết thực. Để vận dụng khách quan, phát huy hiệu quả giá trị và nguyên tắc Đề cương trong bối cảnh mới, chúng ta cần phải xác định xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi nhằm từng bước hình thành nên hệ sinh thái có khả năng nuôi dưỡng, thúc đẩy sự sáng tạo, đồng thời tăng cường năng lực kết nối, lan tỏa, định hình những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam. Việc mở cửa hoàn toàn du lịch vào tháng 3/2022, gắn du lịch với văn hóa, với tiến bộ khoa học công nghệ và phát triển vùng, địa phương cũng cho thấy sự bứt phá của Việt Nam với vai trò là một trong những quốc gia tiên phong triển khai các chương trình phục hồi sau đại dịch Covid-19 vì mục tiêu phát triển bền vững. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã trở thành minh chứng sống động cho việc khẳng định phát triển văn hóa khi có sự phối hợp, liên kết đồng bộ và được triển khai một cách khoa học sẽ phát

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.
huy tối đa vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể của sáng tạo và phát triển văn hóa. Tiếp đó, hàng loạt sự kiện văn hóa, thể thao quy mô lớn cũng được tổ chức, thu hút đông đảo sự tham gia của người dân trong nước và du khách quốc tế, cũng đã góp phần tạo ra giá trị về kinh tế và nâng cao vị thế thương hiệu quốc gia. Điểm lại một số ví dụ trên đây trong Hội thảo kỷ niệm 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam như là điểm khởi đầu và động lực mới cho sự phát triển khiến cho mỗi chúng ta càng thêm trân trọng vai trò của Đề cương và những nỗ lực của những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa trong việc vận dụng linh hoạt các giá trị, nguyên tắc của Đề cương trong việc khơi dậy khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân cho phát triển văn hóa trong sự phát triển chung của toàn dân tộc, nhất là trong các giai đoạn khó khăn với những diễn biến khó lường vừa qua.
Vượt lên trên tất cả những khó khăn, thách thức, tư tưởng xây dựng nền văn hóa mới vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn, khoa học của Đề cương đã luôn tạo sức hút, sức thuyết phục và khả năng quy tụ mạnh mẽ tri thức, tâm huyết khát vọng cống hiến của toàn thể nhân dân Việt Nam trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc. Vì bản chất cốt lõi của văn hóa chính là “một mặt trận”, là “ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi”, là “sức mạnh nội sinh”, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và cũng là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước” như Đề cương về văn hóa Việt Nam, cùng các văn kiện của Đảng đã khẳng định.
Trong giai đoạn hiện nay, vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng này của văn hóa chỉ có thể phát huy hiệu quả khi đầu tư cho văn hóa phải thực sự được chú trọng thông qua việc triển khai các chiến lược, chương trình với lộ trình phù hợp. Đây chính là kết quả nhận thức có được từ việc kế thừa, phát huy một cách khoa học nền tảng, giá trị mang ý nghĩa khởi nguồn của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Từ khởi nguồn này, trong các năm tiếp theo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục các nỗ lực nhằm khẳng định vị thế của cơ quan chuyên trách về văn hóa và tạo ra những chuyển biến tích cực trong toàn ngành. Đặc biệt, toàn ngành sẽ tập trung vào việc “biến tư duy thành hành động” trong tiến trình hiện thực hóa các giá trị, nguyên tắc của Đề cương trong xây dựng môi trường văn hóa nhằm đẩy mạnh và lan tỏa rộng rãi ở khắp các cấp, các vùng, miền trên cả nước. Việc xây dựng môi trường văn hóa được quan tâm một cách thực chất, khoa học và có chiều sâu hơn sẽ tạo ra diện mạo mới cho đời sống văn hóa của toàn dân, kiến tạo các quan hệ hợp tác lành mạnh, phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân.
Gắn bó chặt chẽ với mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh chính là việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể có liên quan trong các môi trường này. Phát triển văn hóa ở Việt Nam vẫn luôn được khẳng định là sự nghiệp của toàn dân. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân có thể hiện thực hóa vai trò của mình trong sự nghiệp này là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành văn hóa. Từ việc tham gia vào quá trình sáng tạo cho tới việc tiếp cận và hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, mỗi người dân đều có thể đóng góp vào sự phát triển chung của lĩnh vực văn hóa, giúp nâng cao giá trị và phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện có. Những đóng góp và vai trò của người dân đối với việc phát triển văn hóa được thể chế hóa như một nội dung của quyền văn hóa đã được khẳng định trong Hiến pháp. Việc phát huy quyền văn hóa và thúc đẩy phát triển văn hóa như một sự nghiệp của toàn dân sẽ giúp tăng cường quá trình đa dạng hóa các giá trị và biểu đạt văn hóa, từ đó phát huy tốt hơn khả năng đóng góp về kinh tế và xã hội của văn hóa. Đây là xu hướng chung trên thế giới và được thể chế hóa thông qua các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia phê chuẩn.
Cuối cùng, một lần nữa khẳng định lại rằng, phát triển văn hóa theo quan điểm mà Đảng ta đã đề ra luôn hướng tới sự toàn diện và hài hòa, trong đó nhân tố con người nắm giữ vị trí then chốt. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hóa của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững chắc nhất. Với hàm nghĩa này, phát triển văn hóa chính là phát triển con người, một quá trình phát triển lâu dài và hướng tới tương lai. Tuy nhiên, tầm quan trọng của phát triển văn hóa lại đòi hỏi sự đầu tư tương xứng của Nhà nước và sự đóng góp tích cực của các thành phần xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng và đầy thách thức của Việt Nam.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần phải nỗ lực vận dụng các nguyên tắc của Đề cương nhằm khơi thông, tối ưu hóa các nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng toàn diện con người Việt Nam thông qua hệ thống các giải pháp cải thiện khung khổ thể chế, hoàn thiện chính sách hiện hành, bao gồm:
  • Hoàn thiện Luật đầu tư, Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), bổ sung lĩnh vực văn hóa vào nhóm ngành nghề ưu đãi đầu tư, vào nhóm lĩnh vực được áp dụng đầu tư theo phương thức đối tác công tư;
  • Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng bổ sung các khoản chi tài trợ cho văn hóa, thể thao được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế;
  • Có chính sách phù hợp tại Luật quản lý, sử dụng tài sản công, nhằm phát huy, sử dụng có hiệu quả tài sản kết cấu hạ tầng, thiết chế văn hóa, tài sản đặc thù của văn hóa.
  • Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa1 nhằm chấn hưng văn hóa.
  • Hoàn thiện hệ thống chính sách, điều chỉnh xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong đó đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa.
  • Xây dựng Bộ chỉ số quốc gia về phát triển văn hóa.
  • Hoàn thiện các chính sách văn hóa đối ngoại có khả năng phát huy tính chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa nhằm tạo sự lan tỏa mạnh mẽ của giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
  • Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
  • Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, chú trọng phát triển công cụ đo lường, giám sát việc hoạch định, triển khai chính sách và hiệu quả đầu tư. Đồng thời, tiếp tục phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu văn hóa và tăng cường chia sẻ thông tin phối hợp liên ngành, liên khu vực, liên chủ thể.

_____________

1. Tham khảo đề xuất của Vụ Kế hoạch, Tài chính - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
 
Bước sang năm 2023, tròn 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, với niềm tin vững chắc từ những thành quả đã đạt được trong quá trình kế thừa, vận dụng các giá trị, nguyên tắc cốt lõi của Đề cương, cùng những hy vọng mới, tôi tin rằng, chúng ta sẽ tiếp tục kiên định trên con đường tháo gỡ khó khăn, khắc phục tồn tại, tận dụng cơ hội, tìm kiếm giải pháp tập trung nguồn lực đầu tư chuyên sâu và có trọng điểm cho văn hóa. Vì trên hết, đầu tư cho văn hóa một cách khoa học, hợp lý, chính là đầu tư cho sự phát triển, đầu tư cho tương lai hội nhập mang tính bền vững hơn của đất nước. Đó cũng chính là nền tảng tiên quyết góp phần hình thành một nền văn hóa mới có khả năng tạo động lực khơi dậy khát vọng cống hiến của toàn dân cho sự nghiệp chấn hưng văn hóa và chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trên bản đồ sức mạnh mềm thế giới.
 

PHẦN THỨ NHẤT


GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
 
 
 

ĐỊNH HƯỚNG “DÂN TỘC, ĐẠI CHÚNG, KHOA HỌC”

VÀ VIỆC PHÁT HUY NGUỒN LỰC NỘI SINH
CỦA VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG  ĐẤT NƯỚC
PGS.TS. TRẦN THỊ AN)
N
 
hìn lại thời điểm cách đây 80 năm, khó có thể đánh giá hết giá trị của việc người dân Việt Nam trong màn đêm nô lệ lại được tiếp cận với một luồng ánh sáng có sức mạnh soi rọi màn đêm, đó là một Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Đảng Cộng sản Đông Dương: bản Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Tên gọi của văn bản (“Đề cương”) đã thể hiện sự súc tích, cô đọng của cách thể hiện, nhưng nhờ sự cô đọng đó mà những nội dung cốt lõi của nó đã thể hiện định hướng phát triển văn hóa có ý nghĩa xuyên thời gian. Một trong số các nội dung cốt lõi đó, chúng tôi muốn đề cập đến việc xác định tính chất, định hướng phát triển văn hóa, được thể hiện dưới tên gọi là “các nguyên tắc vận động”. Nội dung này được bản Đề cương viết như sau: Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này: a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
1. Tính đại chúng như một lời tập hợp quần chúng
Văn hóa như cách quan niệm hiện nay là toàn bộ sáng tạo của con người trong quá trình sống của mình. UNESCO đã định nghĩa văn hóa như sau:

_____________

) Khoa Các khoa học liên ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Điều này đồng nghĩa với việc văn hóa là toàn bộ sáng tạo (vật chất, tinh thần) và là sản phẩm của toàn dân, của các cộng đồng chứ không phải chỉ là những sản phẩm được đánh giá là “có giá trị”, dù cho đánh giá đó được thực hiện bởi một nhóm người hoặc dư luận rộng rãi.
Khái niệm văn hóa, trong quá trình nhận thức chung của xã hội và nhận thức của giới nghiên cứu đã có một thời gian dài được đồng nhất với những gì được coi là “giá trị, tiến bộ, tinh túy”, và điều này gần như được hiểu là sản phẩm của tầng lớp trên. Trong khi đó, người dân lao động hàng nghìn năm thực hành văn hóa một cách hồn nhiên theo cảm xúc, niềm tin và nhu cầu của mình, và họ không nghĩ rằng, họ đã đóng vai trò to lớn trong việc trao truyền và bảo lưu những giá trị quý báu của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh một đất nước nô lệ, các quyền cơ bản của người dân bị tước đoạt, thì việc nhận thức về quyền văn hóa dường như là một việc quá xa vời. Chính trong bối cảnh đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời. Đó thực sự là một ngọn đèn pha soi rọi vào màn đêm tăm tối của việc nhận chân giá trị của mình với tư cách là một chủ thể văn hóa và nhận chân giá trị của nền văn hóa mà họ thuộc về, họ đang thực hành, đang trao truyền và đang gìn giữ. Với ý nghĩa này, Đề cương về văn hóa Việt Nam là một thông điệp mới mẻ và mạnh mẽ nhằm thức tỉnh nhận thức của mỗi người Việt Nam về tài sản văn hóa mà họ đang nắm giữ, qua đó để nhận thức về vị thế của mình. Hơn thế, bản Đề cương có giá trị giúp cố kết cộng đồng, kêu gọi tinh thần đoàn kết của những người không chỉ là “máu đỏ da vàng” mà còn là toàn thể đồng bào về truyền thống văn hóa được kiến tạo và trao truyền từ hàng nghìn năm lịch sử.
Bên cạnh nguyên tắc “đại chúng hóa” hướng tới toàn thể người dân Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2/1943) đã chú ý tới một lực lượng hoạt động chuyên nghiệp, xác định lực lượng nòng cốt, đó là: “Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn vào hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, v.v. phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức...”1. Chính vì thế, ngay sau khi công bố bản Đề cương về văn hóa vào tháng 2/1943 thì hai tháng sau, Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập (4/1943). Điều này cho thấy sự ứng phó sáng suốt của Đảng trong việc nhanh chóng thành lập một diễn đàn nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng, tuyên truyền về đường lối cách mạng Việt Nam và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Với quan điểm đúng đắn về việc “văn hóa khi đã xâm nhập vào đại chúng thì cũng tác động như một sức mạnh vật chất”, Hội Văn hóa cứu quốc đã nhanh chóng có các hoạt động diễn thuyết về các nội dung “kiến thiết một nền văn hóa mới với mục đích phụng sự độc lập tự do và hạnh phúc của dân tộc”, các bài viết về bản Đề cương văn hóa trên tờ báo của Hội nhằm lan tỏa sâu rộng các nội dung của bản Đề cương2. Sự tham gia của các văn nghệ sĩ như Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài... đã tạo nên một cầu nối hữu hiệu giữa chủ trương của Đảng với đông đảo đại chúng, vừa chứng tỏ tính đúng đắn của bản Đề cương, vừa phát huy hiệu quả nhất chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới của Đảng.
Nhận định về nguyên tắc này, Bùi Hoài Sơn viết: “Nguyên tắc đại chúng hóa trong phát triển văn hóa có lẽ là một trong những điểm nhấn quan trọng. Đại chúng ở đây được hiểu là văn hóa được hình thành bởi đa số nhân dân, dành cho đa số nhân dân, vì lợi ích đa số nhân dân. Thực ra, nguyên tắc này không mới trong dòng chảy lịch sử tư tưởng phát triển của đất nước, khác

_____________

  1. Nguyễn Bá Dương: “Đề cương về văn hóa Việt Nam - cội nguồn của đường lối đúng, cương lĩnh của chính sách hay”, Báo Điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, số ra ngày 20/2/2013, nguồn: https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/de-cuong-van-hoa-viet-nam-coi-nguon-cua-duong-loi-dung-cuong-linh-cua-chinh-sach-hay-171481.html.
  2. Xem Ngọc Chính: “Kỷ niệm 70 năm thành lập Hội Văn hóa cứu quốc (4/1943- 4/2013) Nơi đặt nền móng xây dựng nền văn hóa cách mạng”, Cổng thông tin Bảo tàng Lịch sử quốc gia, 2013, Nguồn: https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3097/14144/ky-niem-70-nam-thanhlap-hoi-van-hoa-cuu-quoc-4-1943-4-2013-noi-djat-nen-mong-xay-dung-nen-van-hoacach-mang.html.
chăng là nguyên tắc này được nhấn mạnh, cô gọn để trở thành một kiểu triết lý phát triển”1.
2. Tính dân tộc như một lời hiệu triệu tinh thần yêu nước
Từ tinh thần của lời kêu gọi đoàn kết, trong bối cảnh người dân đang sống trong một đất nước nô lệ, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam thực sự là lời hiệu triệu tinh thần yêu nước. Về nguyên tắc này, Đề cương viết: “Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập)”2.
Như đã nói, văn hóa không phải là cái gì đó thật mơ hồ mà là toàn bộ đời sống hằng ngày của mỗi cộng đồng. Tinh thần yêu nước cũng không phải là cái gì đó cao siêu mà là sự gắn bó một cách thiết tha với vận mệnh dân tộc của mỗi cá nhân. Như vậy, khi thực hành văn hóa, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đã thể hiện trong đó tình yêu quê hương đất nước, sự gắn kết với truyền thống và sự gắn bó với những hiện thể của truyền thống trong hiện tại. Phát biểu về cùng một nội dung trong một bối cảnh tương tự của một đất nước sống dưới ách ngoại xâm, độc giả trên thế giới luôn nhớ đến một thiên tuỳ bút nổi tiếng của nhà văn Nga Ilya Erenburg (1891-1965). Bản tuỳ bút này có tên là “Lòng yêu nước” được đăng vào ngày 26/6/1942 - thời điểm mà cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô đang diễn ra hết sức khốc liệt. Ông viết: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh... Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Volga, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc” (Bản dịch của Thép Mới).
Trở lại bối cảnh ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam, có thể nói, trong bối cảnh nước mất nhà tan, người dân nô lệ tưởng khó mà có tâm trạng nào để nghĩ đến hoặc bày tỏ tình yêu đất nước, nhưng với các nội dung của

_____________

  1. Bùi Hoài Sơn: “Đề cương văn hóa Việt Nam - nền móng xây dựng nền văn hóa mới
Dân tộc - Khoa học - Đại chúng”. Nguồn: https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/ BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=72611.
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.23-24.
bản Đề cương, tình yêu đất nước không phải là cái gì xa xôi mà hóa ra rất gần, dân tộc không còn là cái gì đó cao vời mà là rất thực. “Dân tộc hóa”, theo tinh thần của Đề cương là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”1; xây dựng nền văn hóa mới chính là kiếm tìm con đường độc lập, tự do, hay nói cách khác, để làm được cách mạng giành độc lập cho dân tộc, mọi người dân phải đứng trong cùng một mặt trận văn hóa.
  1. Tính khoa học như một định hướng lựa chọn của phát triển văn hóa
Nguyên tắc vận động thứ ba được đề cập đến trong Đề cương là nguyên tắc khoa học hóa. Bản Đề cương viết: “Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)”2. Với bối cảnh tháng 2/1943, nông dân Việt Nam hầu hết là thất học, tầng lớp trí thức thì phân hóa và hoang mang, chủ trương “khoa học hóa” liệu có phải là một chủ trương quá khó hiểu đối với tất cả những người tiếp nhận?
Đi sâu phân tích, có thể nói, ở nguyên tắc này, quan điểm của Đề cương về văn hóa là những gì gắn với khoa học và tiến bộ. Cần phân tích các khía cạnh của quan điểm này. Hiểu theo nghĩa thông thường, văn hóa gắn chặt với đời sống con người, không nên đánh giá văn hóa bằng tiêu chí thể hiện trình độ cao/thấp, tốt/xấu, tiên tiến/lạc hậu. Tuy nhiên, nếu văn hóa là sáng tạo của con người trong quá trình thích ứng với tự nhiên thì ngược lại, con người lại chính là một sản phẩm của văn hóa theo nghĩa: văn hóa đã mang lại phần “người” cho “con người”, là tư duy, nhận thức, là phẩm chất nhân văn, làm cho cuộc sống trở nên phong phú, tốt đẹp hơn. Hội nghị Văn hóa toàn quốc (năm 2021), Lê Hồng Lý cũng đã nói đến điều này: “Khi phần “người” (văn hóa) lớn, mạnh lên thì phần “con” (phản văn hóa) sẽ bị giảm, mất đi”3. Với nghĩa này, bất cứ một chiến lược phát triển văn hóa đúng đắn nào cũng sẽ phải hướng đến sự phát triển con người, phát triển cộng đồng, phát triển đất nước. Và vì vậy, cần

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.23-24.
  1. Lê Hồng Lý: “Tìm hiểu động lực và sức mạnh nội sinh của văn hóa trong sự phát triển của đất nước hiện nay”, Kỷ yếu Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Hà Nội, 24/11/2021, tr.30.
hiểu từ “tiến bộ” chính ở nghĩa này. Nó không mang nghĩa đánh giá sự cao/thấp của văn hóa mà nó chính là mục tiêu nhân văn tiến bộ của phát triển văn hóa. Chọn mục tiêu nhân văn với nghĩa là sự tiến bộ của nhân loại, Đề cương về văn hóa Việt Nam coi đó là cách tiếp cận khoa học nhất. Vì thế, khái niệm “Khoa học hóa” ở đây cần được hiểu là sự lựa chọn đường lối phát triển sao cho có thể trao cho người dân các cơ hội phát triển để đời sống của họ được tiến bộ nhanh nhất, sao cho có thể tìm ra được con đường phát triển đất nước một cách bền vững nhất.
Nhìn vào bản chất của văn hóa thì, suy cho cùng, văn hóa của mỗi cá nhân/cộng đồng/quốc gia chính là sự lựa chọn của cá nhân/cộng đồng/quốc gia đó. Sự lựa chọn thái độ, ứng xử của cá nhân, cộng đồng, quốc gia trong việc thích ứng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội sẽ quyết định sự lựa chọn cách kiến tạo nên khí quyển văn hóa cho từng cộng đồng, quốc gia đó. Khí quyển văn hóa đó sẽ xác định mục tiêu của sự phát triển và tạo nên động lực cho phát triển. Từ khía cạnh này, “nguyên tắc khoa học hóa” của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã tạo nền móng cho việc định hình quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước” từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, tới Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, tới văn kiện Đại hội Đảng các khóa và Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức năm 2021.
  1. Khơi gợi nguồn lực nội sinh từ mạch nguồn văn hóa dân tộc: giá trị đương đại của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Với ba nguyên tắc vận động trên, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác định một cách rõ ràng các định hướng phát triển văn hóa. Cùng với các nội dung khác, ba nguyên tắc này đã xây dựng nền tảng cho việc xác định quan điểm coi văn hóa là một nguồn lực nội sinh phát triển bền vững đất nước.
Ngay sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đất nước còn bộn bề muôn vàn khó khăn với một Chính phủ non trẻ, lại phải chống chọi với thù trong giặc ngoài, nhưng có thể nói, sự nghiệp phát triển văn hóa luôn nhận được sự quan tâm lớn lao.

4.1. Bảo tồn kho tàng di sản của dân tộc

Một trong những văn bản sớm nhất của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về văn hóa là Sắc lệnh số 65/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945 về bảo tồn cổ tích.
Thông qua Sắc lệnh này (và các hoạt động tham quan các di tích, tham dự các hoạt động văn hóa chuyên nghiệp và quần chúng khác của Chủ tịch Hồ Chí Minh), có thể thấy, tính dân tộc của các di sản văn hóa luôn là mối quan tâm đau đáu của Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ Việt Nam ngay từ khi mới được thành lập và trong suốt quá trình lịch sử. Cũng trong Sắc lệnh này, Chính phủ đã thể hiện quan điểm tôn trọng tính kế thừa, tính trao truyền, tính tiếp tục của di sản văn hóa - điều mà sự tiếp nối các thể chế chính trị ít khi làm được. Hơn thế nữa, Sắc lệnh số 65/SL còn thể hiện một thái độ trân trọng đối với toàn bộ di sản văn hóa của quá khứ, chấp nhận và tôn trọng tính đa dạng văn hóa bằng việc khẳng định vai trò quan trọng của nó đối với lịch sử dân tộc. Điều thứ 4 của Sắc lệnh viết: Cấm phá hủy những đình chùa, đền, miếu hoặc những nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được bảo tồn. Cấm phá hủy những bi ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở có tính cách tôn giáo hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa được bảo tồn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam, có thể thấy quan điểm bảo tồn tổng thể, bảo tồn nguyên vẹn di sản văn hóa dân tộc một cách không phán xét với mục đích hiểu về lịch sử dân tộc, nhận chân các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là một quan điểm đề cao tính dân tộc của văn hóa. Quan điểm này được hình thành từ sự tiếp nối mạch nguồn của nguyên tắc “dân tộc” có từ trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.

4.2. Vai trò của văn hóa: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những lời diễn giải thấm thía về vai trò của văn hóa và trọng trách của người làm công tác quản lý văn hóa: “Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân... Đối với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút thành một kết luận ngắn gọn, cô đúc: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Tiếp đó, trong Thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng... Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế. Với lời căn dặn này, vai trò của văn hóa đối với việc tạo sức mạnh cho cuộc kháng chiến, lưu giữ các giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc, việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới... đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ.
Tiếp theo, trong Thư gửi các họa sĩ nhân Triển lãm hội họa (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thêm một lần nhắc nhở trọng trách của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp văn hóa. Người viết: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Có thể nói, tiếp tục những định hướng quan trọng từ Đề cương về văn hóa năm 1943, các bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa đã đặt nền móng quan trọng cho việc xây dựng các chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam.

4.3. Văn hóa với tư cách là một trụ cột của phát triển đất nước

Chúng ta đều biết rằng, trong các hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững, văn hóa không được xác định là một trụ cột, tuy nhiên, vai trò của văn hóa trong phát triển luôn được nhấn mạnh ở các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNESCO. Với việc phát động Thập niên thế giới phát triển văn hóa (1988-1997), UNESCO đã xác quyết rằng: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng về cả mặt kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của các nước ấy sẽ bị suy yếu đi rất nhiều. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy, phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa. Nhưng đó là điều cho đến nay vẫn thiếu. Từ nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn cổ xúy trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội”1. Với những quan điểm mạnh mẽ này, UNESCO đã mở đường cho việc coi văn hóa là trụ cột thứ tư trong phát triển bền vững2.
Ở Việt Nam, vai trò của văn hóa cho phát triển đã được nhận thức một cách khá sớm. Năm 1992, Việt Nam tham gia ký cam kết thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững, nhưng trước đó một năm, từ năm 1991, Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường”. Cũng trong thập niên đó, vào năm 1998, Đảng đã có một nghị quyết riêng về văn hóa - Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết này lần đầu tiên xác định vai trò của văn hóa đối với phát triển đất nước: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Sau 15 năm thực hiện, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, đến năm 2014, Đảng đã tiếp tục có một nghị quyết mới (Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Từ đây, vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đã chính thức được khẳng định.

4.4. Văn hóa với tư cách là một nguồn lực nội sinh phát triển đất nước

Sự khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đã tạo tiền đề cho việc khẳng định văn hóa với tư cách là một nguồn lực nội sinh phát

_____________

1. Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao xuất bản, Hà Nội, 1992, tr.23.
2 . Xem Keith Nurse: Culture as the Fourth Pillar of Sustainable Development, Document prepared for Commonwealth Secretariat, Malborough House, Pall Mall, London, UK (in the International Meeting for Small Island Developing States (SIDS), 2006.
triển đất nước. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội XII đã xác định phương hướng của nhiệm vụ Xây dựng, phát triển văn hóa, con người là: “Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”“1. Quan điểm này được tiếp tục khẳng định trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đặc biệt, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức năm 2021.
Văn hóa vốn là một lĩnh vực khó định lượng, vậy “nguồn lực nội sinh của văn hóa” có thể nhận diện và định lượng không? Câu trả lời là: Có! Nguồn lực đặc biệt này có thể nhận diện ở khía cạnh “vốn văn hóa” - một trong 5 loại nguồn vốn phát triển đất nước (vốn tài nguyên, vốn hạ tầng, vốn xã hội, vốn con người, vốn văn hóa). Với tính chất là một loại vốn (“là một giá trị lâu dài, cái được nhân lên và không tàn lụi”2, là giá trị được chưng cất từ đời sống xã hội loài người mà con người tạo ra, tham gia và tận hưởng, có thể luân chuyển thành các loại vốn khác trong phát triển3), vốn văn hóa được nhận diện từ góc độ vật thể và phi vật thể là những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, tạo dựng và kết nối vốn xã hội, bồi đắp vốn con người cho phát triển đất nước. Không phải là các sản phẩm có được do hội nhập, vốn văn hóa được kiến tạo, bảo vệ và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi chính con người Việt Nam; tính nội sinh của nguồn lực này đã thể hiện sự vô tận của nó, tính bản sắc của nguồn lực này đã thể hiện sức mạnh vô biên của nó.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.216.
  2. Hernando De Soto: Bí ẩn của vốn - Vì sao chủ nghĩa tư bản thành công ở phương Tây và thất bại ở mọi nơi khác, Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.
  3. Xem Trần Hữu Dũng: “Vốn xã hội và kinh tế”, Tạp chí Thời đại, số 8, tháng 7/2003, tr.82-102.
 
Từ các nền tảng nguồn lực nội sinh đó, trong phát biểu khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau khi nhắc đến câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, đã nhấn mạnh ý của quan điểm văn hóa gắn với sự tồn vong của dân tộc: “Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Các tham luận của Hội nghị này cũng đã bàn nhiều đến động lực và sức mạnh nội sinh của văn hóa ở các khía cạnh xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam và xây dựng con người Việt Nam. Tiếp nối các nội dung của Hội nghị Văn hóa toàn quốc (năm 2021), các vấn đề về xây dựng “Hệ giá trị” đã được nghiên cứu sâu hơn trong Hội thảo “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” (11/2022). Phát biểu trước khi Hội thảo diễn ra, ông Nguyễn Trọng Nghĩa đã nhấn mạnh: hệ giá trị quốc gia là nền tảng, sức mạnh nội sinh mang tính quyết định để dân tộc trường tồn và phát triển1.
Như vậy, nhìn xuyên dòng thời gian 80 năm, các định hướng được trình bày một cách hết sức vắn tắt về ba nguyên tắc: dân tộc, đại chúng, khoa học trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam từ năm 1943 đã được phát triển một cách liền mạch qua thời gian, trở thành những thông điệp mạnh mẽ về nhận diện nguồn lực nội sinh cho phát triển văn hóa hôm nay.
*
                                                                                      *           *
Được khởi soạn từ cách đây 80 năm, trong hoàn cảnh bí mật, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam lựa chọn cách viết ngắn gọn và sơ giản nhất có thể. Mặc dù 40 năm sau khi văn bản quan trọng này được soạn thảo, tác giả của nó, đồng chí Trường Chinh cho rằng: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề về cách mạng văn hóa Việt Nam”2, nhưng với tất

_____________

  1. Xem https://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/ban-tuyen-giao-tw/he-gia-tri-quocgia-la-suc-manh-noi-sinh-de-dan-toc-phat-trien-142121.
  2. Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985. Dẫn theo Phạm Mai Hùng: “Bối cảnh ra đời và ý nghĩa của Đề cương về văn hóa năm 1943”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4, 2003, tr.6-9.
cả sự cô đọng, súc tích, có thể nói, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đã vạch ra được những đường hướng chiến lược quan trọng cho phát triển văn hóa Việt Nam. Ba nguyên tắc vận động: “dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” chính là những nội dung quan trọng đặt nền móng cho các văn kiện quan trọng về văn hóa của Đảng và các chiến lược phát triển văn hóa của Chính phủ trong 80 năm qua.
Tiếp nối các khái niệm nền tảng được đề xuất trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, sự khai triển các chiến lược văn hóa và thực thi các chính sách văn hóa trong 80 năm qua đã làm sâu hơn nội hàm của tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng của nền văn hóa Việt Nam. Quan điểm về vai trò của văn hóa “là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển bền vững đất nước” và quan điểm về việc “coi văn hóa là một nguồn lực nội sinh phát triển đất nước” ở các văn kiện và các văn bản chính sách chính là sự tiếp nối từ ngọn nguồn được khởi soạn trong Đề cương về văn hóa Việt Nam cách đây 80 năm.
Nhận diện dòng chảy chưa bao giờ đứt đoạn từ các khái niệm “dân tộc - đại chúng - khoa học” tới quan điểm “văn hóa như một nguồn lực nội sinh phát triển bền vững đất nước” cũng chính là khẳng định sức sống của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong bối cảnh đương đại. Dường như có một sự tương đồng giữa tính chất của thời điểm biên soạn Đề cương và bối cảnh hiện nay: Đất nước đang đứng trước những vận hội mới; vận hội đó đang một lần nữa yêu cầu nhận chân vai trò của văn hóa và đòi hỏi các nhà quản lý văn hóa thực hiện những trọng trách quan trọng của mình đối với sự phát triển của đất nước. Trước các làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, trước áp lực mạnh mẽ của kinh tế thị trường, trước những tác động của những biến đổi mau lẹ thế giới đến sự phát triển đất nước, việc kiên định dựa trên ba trụ cột “dân tộc - đại chúng - khoa học” trong kiến tạo nguồn lực nội sinh và bản sắc văn hóa dân tộc nhằm mưu cầu hạnh phúc cho người dân luôn là một vấn đề có ý nghĩa thời sự.
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÍNH DÂN TỘC, ĐẠI CHÚNG,
KHOA HỌC CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
TS. NGUYỄN THỊ MAI ANH*
M
 
ột trong những điểm nổi bật của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm
1943 là đề cập một cách toàn diện và sâu sắc các khía cạnh văn hóa và các đặc thù văn hóa dân tộc Việt Nam. Tinh thần của bản Đề cương là văn hóa phải kế thừa những kinh nghiệm của văn hóa xưa và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa mới phù hợp để xây dựng nền văn hóa mới. 80 năm nhìn lại, ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng, khoa học được Đề cương nhấn mạnh đã trở thành các nguyên tắc cơ bản, vừa là cơ sở.nền tảng, vừa là mục tiêu đạt tới đối với mọi sự kế thừa và tiếp thu. Đây cũng là một trong những nội dung cốt lõi làm nên giá trị trường tồn của Đề cương.
Tiếp cận văn hóa ở cả khía cạnh văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất; đặc biệt ở cả giá trị văn hóa và phản văn hóa có thể thấy những giá trị văn hóa được Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đề cập đến đều mang tính phổ biến, phổ quát, và thể hiện sâu sắc, toàn diện bản chất, đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
Với vị trí địa chính trị, địa kinh tế, lịch sử phát triển Việt Nam gắn với những thời kỳ có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa với rất nhiều quốc gia ở các châu lục trên thế giới. Với đặc thù là quốc gia đa dân tộc (có 54 dân tộc), văn hóa Việt Nam được khái quát là có sự đa dạng trong thống nhất. Văn hóa của 54 dân tộc đã tạo nên sự giàu có của văn hóa Việt Nam, tạo nên bản sắc văn hóa vô cùng đa dạng, tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo, trở thành những dấu ấn đậm nét của từng vùng, miền, tộc người.

_____________

* Vụ trưởng, Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội, Tạp chí Cộng sản.
Lịch sử phát triển qua các thời kỳ của văn hóa cho thấy, sự tiếp biến văn hóa luôn gắn với những biến đổi xã hội. Quá trình phát triển xã hội vừa chịu tác động của văn hóa, vừa tác động trở lại, làm biến đổi văn hóa, thông qua sự hòa nhập giữa văn hóa các thành phần, tầng lớp trong xã hội. Thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, tác động mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã khiến ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa có lúc đối kháng quyết liệt, có lúc bị trộn lẫn; tuy nhiên, xét về khía cạnh xã hội, bối cảnh này cũng giúp phân định rõ, cho thấy đâu là những giá trị văn hóa tốt đẹp cần gìn giữ phát huy, đâu là những phản văn hóa cần điều chỉnh, thậm chí loại bỏ.
Trên cơ sở khái quát một số nội dung, khía cạnh cơ bản về phát triển văn hóa trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được Đảng ta kế thừa, tiếp tục trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân trong hơn 80 năm qua (Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946; Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai năm 1948; Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng năm 2021); trên cơ sở bối cảnh thực tiễn đất nước sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khi nền văn hóa Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn đến từ bên trong nội bộ đất nước (khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,...) và những thách thức đến từ bên ngoài (toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế tri thức, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,...), chúng tôi đi sâu vào ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng, khoa học, phân tích theo hướng ba nguyên tắc này đã trở thành nền tảng quan trọng, vừa là cơ sở.nền tảng, vừa là mục tiêu đạt tới đối với mọi sự kế thừa và tiếp thu, góp phần vào những định hướng cơ bản cho một nền văn hóa mới trong bối cảnh mới.
Thứ nhất, vấn đề văn hóa và dân tộc.
Đề cương đề cập: “Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập)”.
Luận điểm này được kế thừa ngay từ khi mới thành lập nước. Năm 1946, chỉ một năm sau khi nước ta giành được độc lập, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất đã được tổ chức. Mặc dù đất nước đang trong thời kỳ khó khăn nhưng đứng trước yêu cầu về xây dựng một nền văn hóa mới vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hội nghị vẫn được tổ chức. Trong bài phát biểu khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất: Dân tộc, khoa học, đại chúng”. Ở thời điểm đó, nội dung cơ bản, mang đậm giá trị cốt lõi, bản chất của văn hóa trong vấn đề dân tộc được đúc kết trong ý nghĩa “lấy hạnh phúc của đồng bào... làm nội dung phản ánh” - đây cũng là nội dung được xác định từ Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (năm 1946) và lần thứ hai (năm 1948). Đây chính là sự kế tục đường lối văn hóa của Đảng đã được đề ra từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Luận điểm này tiếp tục được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa: “Văn hóa nói lên bản sắc của một dân tộc. Dân tộc còn thì văn hóa còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Trong bất kỳ giai đoạn nào, những yếu kém, khuyết điểm về văn hóa tất yếu sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, đến một mức độ nào đó, có thể gây hậu quả nguy hại đối với quá trình phát triển của cả đất nước. Rõ ràng, vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, văn hóa luôn ảnh hưởng sâu sắc đến đất nước - dân tộc. Hệ quan điểm này nhất quán với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và dân tộc.
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định một cách trực diện mối quan hệ giữa văn hóa với dân tộc, chỉ rõ nhiệm vụ “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó, tiên tiến là tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới, đậm đà bản sắc dân tộc là kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Từ đó đến nay, các quan điểm cơ bản về xây dựng nền văn hóa tiếp tục khẳng định với các nhiệm vụ: xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần” liên tục được kế thừa và bổ sung, phát triển với định hướng văn hóa là “động lực và nguồn lực cho phát triển”.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và khi công nghệ thông tin truyền thông, mạng internet, mạng xã hội tạo ra những môi trường văn hóa không biên giới, tạo ra những sắc thái văn hóa đa dạng, đa chiều, đa tầng..., nguyên tắc này càng đặc biệt được coi trọng. “Xâm lăng văn hóa” là câu chuyện được nhắc lại với sự quan tâm sâu sắc của nhiều quốc gia từ khi công nghệ thông tin với những thành tựu to lớn về internet đem lại những cơ hội cho giao lưu văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc; đồng thời, cũng tạo ra những nguy cơ “xâm lăng văn hóa” của các quốc gia phát triển đối với các quốc gia đang phát triển thông qua sự hỗ trợ của mạng internet, mạng xã hội,... Xu thế về một xã hội thông tin, về phát triển các ứng dụng trên nền tảng internet là không thể tránh khỏi, do đó, các quốc gia chỉ có phương cách duy nhất là xây dựng một “vành đai” văn hóa để bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, độc đáo, tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hóa từ các nền văn hóa khác thông qua từng cá nhân chủ thể cho đến cộng đồng. “Vành đai” văn hóa này hàm ý cả ý nghĩa tinh thần và vật chất. Về tinh thần, đó là phải xây dựng được một môi trường văn hóa lành mạnh, tạo ra một thế hệ các chủ thể biết yêu và có ý thức gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; có tri thức đủ để phân biệt được các giá trị văn hóa không phù hợp; có trách nhiệm với cộng đồng trong đấu tranh với phản văn hóa,... Về vật chất, đó là phải xây dựng được một hệ thống thiết chế văn hóa đầy đủ, hợp lý, hoạt động hiệu quả từ trung ương đến cơ sở, trong đó bao hàm cả việc trang bị một nền tảng kỹ thuật công nghệ hiện đại, một kỹ năng sử dụng công nghệ thành thạo để vừa biết tiếp nhận vừa biết phản bác, đấu tranh... Đây là “vành đai” hiệu quả nhất mang tính chủ động để bảo vệ một cách bền vững văn hóa truyền thống dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại trong mọi bối cảnh, tình huống, “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”.
Thứ hai, vấn đề văn hóa và đại chúng.
Đề cương đề cập: “Đại chúng hóa là (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng)”.
Bối cảnh giao lưu, tiếp biến, thậm chí là xung đột giữa các nền văn hóa hiện nay đã và đang tạo ra những tình thế buộc chúng ta phải lựa chọn con đường phát triển văn hóa một cách rõ nét để định hướng cho văn hóa phát triển. Toàn cầu hóa khiến các quốc gia gần lại nhau hơn cả về các yếu tố văn hóa, với những sự đan cài, xen lẫn; kinh tế tri thức thúc đẩy khoa học - công nghệ phát triển; mạng xã hội xóa nhòa ranh giới địa lý, ranh giới giữa các nền văn hóa trên không gian mạng cũng có lúc, có vấn đề không còn tồn tại khác biệt. Nền văn hóa Việt Nam vốn mang bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với tính nhân dân rộng khắp và tính dân tộc sâu sắc, đã và đang tiếp thu những xu hướng văn hóa đa dạng từ các nền văn hóa khác trên thế giới; bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đã và đang đứng trước những thách thức của các xu hướng mới trong thời kỳ hiện đại... Xét về bản chất, nền văn hóa mang tính đại chúng là nền văn hóa đậm tính nhân văn, nhằm phục vụ quảng đại nhân dân, “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”... Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu về đại chúng hóa trong bối cảnh hiện nay không còn bó hẹp trong phạm vi một đất nước, một quốc gia, một dân tộc, mà phải ở tầm thế giới, hàm nghĩa “nhân dân” còn mang tính nhân loại. Đây là một trong những đặc điểm mới của nguyên tắc đại chúng trong thời kỳ hiện đại. Và một nền văn hóa được nhiều quốc gia - dân tộc tiếp thu và phát triển là nền văn hóa tinh hoa (tất nhiên ở đây cần phân biệt rõ giữa tiếp thu, phát triển với phổ biến và lan tràn).
Đề cương nêu: Đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”. Quan điểm này trở thành một căn cứ quan trọng, làm rõ hơn ý nghĩa về mối quan hệ giữa văn hóa và con người, trong đó, với vai trò chủ thể văn hóa, con người vừa là đối tượng, vừa là mục đích và trở thành trung tâm phát triển văn hóa. Như vậy, từ nhận thức về vai trò chủ thể của văn hóa, từ nhận thức văn hóa phải phục vụ con người, vì sự phát triển con người và phát triển con người toàn diện chính là nền tảng vững chắc, là kế sách lâu bền để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 9/6/2014, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tiếp đó, ngày 4/6/2020, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Có thể thấy, chủ trương gắn phát triển văn hóa với phát triển con người, nhằm mục tiêu phục vụ con người theo tinh thần bản Đề cương đã trở thành chủ trương xuyên suốt từ nhiều năm qua. Trong hai nhiệm kỳ gần đây, đặc biệt là nhiệm kỳ Đại hội XIII, việc xây dựng văn hóa, con người được đặc biệt coi trọng.
Trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng...”. Như vậy, nguyên tắc đại chúng hóa trong bối cảnh hiện nay được nhấn mạnh, mở rộng và đánh giá, nhìn nhận ở một tầm vóc mới.
Thứ ba, vấn đề văn hóa và khoa học.
Đề cương đề cập: “Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)”.
Văn hóa là quá trình đấu tranh với cái xấu để hướng tới các giá trị chân thiện - mỹ, và một nền văn hóa chân chính, lành mạnh luôn bao hàm các giá trị tốt đẹp. Văn hóa luôn mang tính khoa học từ trong quá trình phát triển, nếu “thuận thiên”, nếu bao hàm các giá trị tốt đẹp thì văn hóa phát triển, nếu bao hàm nhiều yếu tố phản văn hóa, tức là phản khoa học (không đúng bản chất, quy luật tồn tại của văn hóa) thì văn hóa có nguy cơ mai một, thậm chí tiêu vong. Chính vì vậy, bảo đảm tính khoa học, “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ” là một phần tất yếu trong quá trình tồn tại và phát triển của văn hóa.
Tính khoa học trong văn hóa còn thể hiện ở sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Nhìn nhận từ khía cạnh học thuật và xét trên thực tiễn, văn hóa không tách rời với các lĩnh vực khác, từ chính trị, kinh tế, xã hội, con người.... Kế tục đường lối phát triển văn hóa được đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, kế thừa quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng nên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc); “mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Trong thời gian gần đây, Đảng, Nhà nước ta đã thường xuyên nhấn mạnh việc phát triển văn hóa, coi văn hóa là một trong các trụ cột phát triển. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 cũng khẳng định: “Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (ngày 24/11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) đến nay, nền văn hóa của nước ta luôn gắn kết máu thịt với lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, với vận mệnh của dân tộc”.
Nền văn hóa khoa học bao hàm toàn diện các mặt, các lĩnh vực văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu thống nhất quan điểm văn hóa tinh thần gồm các tư tưởng, giá trị tinh thần, những lý luận mà con người sáng tạo ra trong quá trình sinh sống; văn hóa tinh thần được tạo ra để phục vụ cho các hoạt động tinh thần như ứng xử, kỹ năng, tri thức, giá trị khoa học nghệ thuật với những nguyên tắc, tiêu chí có tác động chi phối các hoạt động của con người. Văn hóa vật chất là các sản phẩm vật thể, đồ dùng, dụng cụ do con người làm ra dùng để chỉ năng lực sáng tạo của con người. Soi chiếu nhận thức này vào thực tiễn thời kỳ kinh tế tri thức và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, có thể thấy: văn hóa không chỉ bao gồm các giá trị tinh thần, mà văn hóa còn được hiểu như một lĩnh vực kinh tế, một ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao, mang đến những lợi ích vật chất rất cụ thể. Các chủ thể văn hóa hiện nay được xác định rõ không chỉ là văn nghệ sĩ, các nhà quản lý văn hóa mà còn là các doanh nhân, nhà quản lý nói chung, là tất cả các chủ thể có mối quan hệ với nhau trong xã hội ở mọi lĩnh vực, là các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, các tổ chức,... Và tính chất văn hóa cũng không chỉ nằm trong phạm vi các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, giải trí mà nằm trong tất cả các hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội.
Xét theo ba đặc trưng cơ bản của văn hóa là: tính lịch sử, tính giá trị, tính hệ thống (tính lịch sử khiến văn hóa trở thành một phần không thể tách rời trong quá trình phát triển của các lĩnh vực đời sống xã hội. Tính giá trị khiến văn hóa trở thành một phần thước đo giá trị các hoạt động trong đời sống xã hội. Tính hệ thống khiến văn hóa luôn có mối liên hệ với các lĩnh vực khác, luôn hiện diện trong mọi hoạt động của đời sống xã hội), có thể thấy, văn hóa luôn có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, luôn nằm trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội, hơn thế, văn hóa còn mang ý nghĩa vừa là nền tảng, vừa dẫn dắt, định hướng sự phát triển. Khi văn hóa được đề cao, môi trường văn hóa lành mạnh thì xã hội ổn định, phát triển và ngược lại. Chính vì vậy, làm rõ tính khoa học, mối quan hệ của văn hóa trong từng thời kỳ, từ đó có đối sách văn hóa phù hợp để thúc đẩy phát triển là quan trọng và cần thiết.
Lý luận về văn hóa cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và con người, văn hóa được hình thành thông qua từng hành vi của cá nhân con người, khái quát thành thói quen, quan niệm trong cộng đồng. “Văn hóa được xem là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử” và ngược lại văn hóa có tác động trở lại, định hướng hành vi, nhận thức của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: xây dựng nền văn hóa mang tính khoa học, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Một nền văn hóa mang tính khoa học là nền văn hóa tiến bộ, hướng vào phục vụ mục tiêu phát triển đất nước, con người; là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, là sự kế tục những giá trị nội sinh của nền văn hóa truyền thống đồng thời có xác lập giá trị mới. Do đó, yêu cầu phân biệt được các giá trị văn hóa và phản văn hóa, yêu cầu định hướng cho sự phát triển đúng đắn, phù hợp văn hóa Việt Nam trong thế giới đa dạng, đầy phức tạp và khó lường này vừa là yêu cầu tất yếu, vừa phù hợp với quy luật phát triển, bảo đảm tính khoa học.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước, đặc biệt là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã rất coi trọng, đề cao văn hóa, xác định trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay phải lấy văn hóa là cái gốc, là nền tảng để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ. Đây là thể hiện sinh động, phù hợp tính khoa học của văn hóa trong bối cảnh mới. Muốn đất nước độc lập, tự cường, tự chủ thì trước tiên phải có một nền văn hóa độc lập, phát triển mạnh mẽ, một nền văn hóa không chỉ tạo nên một nền tảng tinh thần vững chắc mà còn là động lực, nguồn lực tạo ra các giá trị vật chất, tạo ra lợi ích kinh tế lớn để đất nước phát triển với tâm thế tự chủ, với sức mạnh từ chính nội lực bên trong.
 

SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA TỪ “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”

NĂM 1943 ĐẾN HỘI NGHỊ VĂN HÓA TOÀN QUỐC THÁNG 11/2021
GS.TS. HOÀNG CHÍ BẢO)
1. Giá trị và ý nghĩa của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” - 80 năm nhìn lại
Tháng 2/1943, cách đây vừa đúng 80 năm, giữa lúc tình thế và thời cơ cách mạng giải phóng dân tộc đang dần chín muồi, phong trào cách mạng và khí thế đấu tranh của quần chúng đang dâng cao, nhất là có sự cổ vũ và thúc đẩy của Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941 - Hội nghị quyết định chuyển hướng chiến lược đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) được thành lập để quy tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vào nhiệm vụ cứu quốc, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã trực tiếp khởi thảo bản Đề cương về văn hóa Việt Nam. Văn kiện lịch sử này mang tầm vóc một Cương lĩnh của Đảng về văn hóa. Đó là văn hóa của thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, đặt nền tảng xây dựng nền văn hóa mới dân chủ và cách mạng, đồng thời rọi sáng về xu thế và triển vọng của nền văn hóa tương lai xã hội chủ nghĩa sau này.
Đề cương về văn hóa Việt Nam được thảo luận và thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại một địa điểm An toàn khu của cách mạng - làng Võng La, huyện Đông Anh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, từ

_____________

) Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.
ngày 25/2 đến ngày 28/2/19431. Trong không khí sục sôi của cách mạng, giữa dòng sự kiện và những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng ta và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã sớm nhận thấy vai trò và tác động của văn hóa, đã định hướng sự phát triển bước ngoặt của cách mạng bằng văn hóa. Đó là tư tưởng lớn thuộc về tầm nhìn chiến lược. Tác dụng của Đề cương văn hóa được chứng thực từ thực tiễn và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của xây dựng chính thể cộng hòa, của đường lối và phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc cũng như qua các chặng đường lịch sử sau này trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với sức mạnh nội sinh của văn hóa, của lòng yêu nước, sức sáng tạo, dũng cảm, hy sinh của con người Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. Luận điểm thiên tài của Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” mãi mãi còn giá trị khi khẳng định văn hóa là mục tiêu, động lực của phát triển. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và sáng tạo lịch sử. Trong bảng giá trị văn hóa (chân - thiện mỹ), con người là giá trị cao nhất - giá trị của mọi giá trị. Sự phát triển và hoàn thiện nhân cách con người có thể xem đó là chiến thắng lớn nhất của văn hóa.
Khi xác định ba đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam: dân tộc - đại chúng - khoa học, từ đó xác lập ba nguyên tắc cốt lõi xây dựng nền văn hóa Việt Nam - một nền văn hóa mới do cách mạng sinh thành: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa thì tất cả những giá trị và định hướng đó đều xuất phát và quy tụ vào chủ thể văn hóa, từ cá nhân tới cộng đồng dân tộc. Đó là con người Việt Nam, nhân dân và dân tộc Việt Nam.
Để nhận rõ giá trị và ý nghĩa của Đề cương về văn hóa Việt Nam cần phải nói đến những cống hiến xuất sắc của Tổng Bí thư Trường Chinh trên tư cách một lãnh tụ của Đảng, đồng thời là một nhà văn hóa lớn, người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ phương diện con người và nhân cách văn hóa, dấu ấn của Trường Chinh rất nổi bật trong hành trình tư tưởng lý luận của Đảng ta về văn hóa và lãnh đạo xây dựng nền văn hóa mới của Đảng và của dân tộc. Có một mối quan hệ rất cảm động, lại cũng có những nét tương đồng giữa Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với

_____________

1. Đức Vượng: Tổng Bí thư Trường Chinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.206-218.
Đặng Xuân Khu - Trường Chinh ở những sự kiện lịch sử bước ngoặt, ở những đồng cảm sâu sắc về văn hóa nghệ thuật, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng với tâm hồn và phong cách của nhà thơ, nhà văn hóa lớn.
Tám mươi năm nhìn lại nguồn sáng và sức lan tỏa lâu bền của bản Đề cương văn hóa cũng là 80 năm nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Trường Chinh cùng những cống hiến to lớn của ông với Đảng, với dân tộc của chính tác giả văn kiện nổi tiếng này:
Trước hết, trong ký ức của lịch sử, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, tháng 5/1941, ở đầu nguồn Pác Bó do chính Trường Chinh dự thảo, được Nguyễn Ái Quốc tán thành, đánh giá cao. Người chỉ đề nghị một điều, viết ngắn lại và cô đọng lại. Đề cương về văn hóa Việt Nam là sự vận dụng và cụ thể hóa sâu sắc thêm những tư tưởng của Nghị quyết Trung ương 8 về văn hóa. Đây cũng là sự vận dụng và cụ thể hóa tư tưởng về văn hóa của Hồ Chí Minh, do Hồ Chí Minh khởi xướng.
Nghị quyết Trung ương 8 trong khi giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã đề cập tới vấn đề dân tộc và văn hóa của mỗi dân tộc: Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hòa Dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia theo ý muốn. Và, văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại, tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại và bảo đảm. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và tôn trọng... Quan điểm khoa học và chính trị sáng suốt đó là sự thấm nhuần tư tưởng của V.I. Lênin về quyền tự quyết dân tộc và bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện trong đặc tính dân tộc  - đại chúng - khoa học của nền văn hóa dân tộc mà cách mạng sẽ xây dựng và phát triển.
Cũng như vậy, các nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong xây dựng nền văn hóa mới đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa Tổ quốc với nhân dân, khẳng định vai trò nhân dân như chủ thể sáng tạo văn hóa, cảm thụ và tiêu dùng các giá trị văn hóa của chính mình tạo ra, văn hóa phải đi vào cuộc sống của đại đa số quần chúng nhân dân, phải làm thỏa mãn lợi ích và quyền, chủ quyền của người dân, xét về văn hóa, văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần.
Để nhân dân trong từng quốc gia - dân tộc có thể sở hữu được văn hóa, phải làm cho người dân có độc lập, tự do về chính trị, tức là phải giành được độc lập, người dân là người chủ, xóa bỏ địa vị, thân phận nô lệ, đồng thời phải được trang bị về học vấn làm tiền đề nhận thức cho sự hiểu biết và sáng tạo văn hóa.
Đại chúng hóa phải dựa trên cơ sở của khoa học hóa và lấy hồn cốt và cốt cách, sinh khí và bản sắc từ dân tộc hóa với truyền thống dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc để khẳng định tinh thần dân tộc, ý thức và bản lĩnh dân tộc, thể hiện về trí tuệ và phẩm giá dân tộc, tự do chứ không làm nô lệ, như sau này Hồ Chí Minh nói “chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Con người sáng tạo ra văn hóa, đến lượt nó, văn hóa đào luyện và hoàn thiện nhân cách, phẩm giá con người. Trong dòng sông văn hóa ấy mà con người sống - hoạt động sáng tạo như một sự lựa chọn giá trị, con người Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại họ đã chọn dòng trong chứ không chọn dòng đục. Tinh thần dân tộc và tâm hồn dân tộc chân chính ấy chói sáng ở lòng yêu nước, ở chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn có từ trong truyền thống hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam, đó là sức sống bất diệt, là hằng số của dân tộc và văn hóa dân tộc Việt Nam.
Đạo đức là cốt lõi của văn hóa. Lòng vị tha, nhân ái, khoan dung trong phẩm chất, đặc tính con người Việt Nam làm cho tính dân tộckhuynh hướng dân tộc hóa của văn hóa Việt Nam là tốt đẹp và tích cực, nó xa lạ, không có một chút gì chung với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, vị kỷ. Khoan dung, bao dung, độ lượng của con người Việt Nam vừa là đạo đức vừa là chính trị và hợp lại thành ra văn hóa - một nền văn hóa dân chủ như một đặc tính, một nền văn hóa bao dung (biết chấp nhận, biết chia sẻ, biết đồng cảm, rộng lượng) như một giá trị và một thế ứng xử.
Đề cương về văn hóa Việt Nam như một thiết kế từ tư tưởng lý luận văn hóa, vừa truyền thống vừa hiện đại. Nó giải thích vì sao, qua 80 năm, độ lùi của thời gian càng xa, giá trị, ý nghĩa và sức sống của nó càng tỏa sáng. Nó vẫn còn mãi trong hành trình xây dựng, kiến tạo văn hóa mới, con người mới trong thời đại mới ở Việt Nam - thời đại Hồ Chí Minh1 - thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, của giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do để phát triển dân tộc với hệ giá trị độc lập - tự do - hạnh phúc mà suốt đời

_____________

1. Đảng ta chính thức đề cập tới “Thời đại Hồ Chí Minh” trong Điếu văn truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9/9/1969. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.630.
Hồ Chí Minh theo đuổi. Ngày nay, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa để định hình chủ nghĩa xã hội, là khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để dân tộc cường thịnh, trường tồn như Đảng ta nói rõ trong văn kiện Đại hội XIII1. Muốn thực hiện khát vọng phát triển, phải nuôi dưỡng và phát huy tinh thần cống hiến, khát vọng cống hiến2 của mỗi con người Việt Nam với lực đẩy “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết” - rất hệ trọng và rất thiêng liêng. Bằng cách nào sâu xa nhất để nuôi dưỡng tinh thần và khát vọng cống hiến đó để biến khát vọng phát triển thành hiện thực sinh động, sống động của phát triển, làm cho đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn? Trả lời cho câu hỏi ấy, chỉ có thể là khai thác, tận dụng sức mạnh nội sinh, nguồn lực nội sinh từ văn hóa, từ con người Việt Nam. Đó cũng là ý nghĩa hiện thời và tương lai của Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, nét tương đồng, sự đồng điệu về tư tưởng và tâm hồn giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng với Tổng Bí thư Trường Chinh là ở đâu?
Sau khi viết và xuất bản Lịch sử nước ta bằng thơ vào cuối năm 1941 với một dự báo thiên tài: “Năm 1945 Việt Nam độc lập”, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên hệ với cách mạng và lực lượng quốc tế, ngày 21/8/1942, Người chính thức lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian đó, Đặng Xuân Khu viết bài “Cải cách”, đăng trên Báo Cờ giải phóng số 1 nhằm làm rõ khuynh hướng cải lương phải tránh và khẳng định con đường cách mạng “đến nơi” (chữ dùng của Nguyễn Ái Quốc trong Đường Cách mệnh, 1927) do Đảng lãnh đạo và phải giành cho được độc lập. Đó là ngày 10/10/1942, lần đầu tiên, Đặng Xuân Khu đặt tên mới cho mình là “Trường Chinh” - cái tên đã đi vào lịch sử Đảng và cho đến tận cuối đời của ông.
Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, trực tiếp viết Lời kêu gọi quốc dân đồng bào đoàn kết, tập hợp dưới cờ Việt Minh, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người còn soạn Chương trình hành động của Việt Minh, Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, Lời kêu gọi khởi nghĩa, giành

_____________

1, 2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.34, 47.
chính quyền... đến Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và biết bao văn kiện, lời kêu gọi, thư từ, thơ ca... truyền cảm hứng, mãnh liệt tới toàn dân, toàn Đảng, toàn quân.
Trường Chinh trực tiếp soạn thảo chỉ thị lịch sử trong giờ phút khẩn trương của vận mệnh dân tộc Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, ngày 9/3/1945.
Trong lao tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh với nghị lực phi thường, vượt qua hoàn cảnh tăm tối bị đọa đày, đã viết Ngục trung nhật ký, gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán. Đó là một chặng đường đặc biệt trong cuộc đời và tiểu sử của Người. Và với “tâm hồn lộng gió thời đại”, Người có cả một tuyên ngôn về thơ, về nghệ thuật:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong1.
Người còn trù tính xây dựng chiến lược văn hóa trên cơ sở một quan niệm toàn diện về văn hóa: xây dựng tâm lý, lý tưởng, tinh thần độc lập tự cường; xây dựng luận lý, biết hy sinh, làm lợi cho quần chúng; xây dựng xã hội, một sự nghiệp có quan hệ tới phúc lợi xã hội; xây dựng chính trị dân quyền và xây dựng kinh tế2.
Trường Chinh với bài thơ nổi tiếng Là thi sĩ đã đi tiên phong trong đấu tranh tư tưởng, khẳng định “nghệ thuật vị nhân sinh” và đưa ra một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ cộng sản. Là thi sĩ với bút danh “Sóng Hồng”, sáng tác vào mùa hè năm 1942, chính là phản ánh tuyên ngôn nghệ thuật của ông, là nguồn cảm hứng nghệ thuật chính trị - một khúc dạo đầu cho Đề cương văn hóa, tháng 2/1943.
Cũng cần nói thêm rằng, trong cuộc đời của mình, trước những tình huống và hoàn cảnh bước ngoặt, Trường Chinh là người được Hồ Chí Minh trực tiếp đề nghị đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư để hoàn thiện cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng tại Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941. Cho nên, khi viết Đề cương về văn hóa Việt Nam, Trường Chinh đã ở cương vị Tổng Bí thư, trực tiếp phát ngôn quan điểm của Đảng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa nước Việt Nam mới.

_____________

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.451.
  2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458.
Những điều trình bày trên đây cốt để nói dấu ấn của Hồ Chí Minh và của Trường Chinh trong kiến tạo lý luận văn hóa, văn học nghệ thuật của Đảng ta trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt.
Như đã nói, con người là giá trị cao nhất và kết tinh các giá trị trong bảng giá trị văn hóa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập đến những tư tưởng lớn ở tầm chiến lược về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam. Trong nghiên cứu, tìm tòi để nhận ra diện mạo những hệ giá trị nền tảng đó, không thể không nói đến những nhân cách văn hóa như Hồ Chí Minh và Trường Chinh và Đề cương về văn hóa Việt Nam cũng như 5 điểm lớn trong xây dựng văn hóa Việt Nam mà Hồ Chí Minh viết ở cuối tập thơ Nhật ký trong tù.
Thời điểm của sự ra đời hai văn kiện vô giá này là tương đồng, Hồ Chí Minh trong lao tù ở Quảng Tây và Trường Chinh đang lãnh đạo Trung ương ở trong nước, trong hoạt động bí mật giữa những ngày bão táp.
2. Tư tưởng và triết lý Hồ Chí Minh về văn hóa - một khái lược qua những luận đề tiêu biểu của Người
Ngoài quan niệm về văn hóa và trù tính 5 điểm lớn xây dựng nền văn hóa Việt Nam như đã nêu trong Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh còn xác định mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị bằng một luận điểm tiêu biểu: Văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị, nghĩa là tác động biện chứng và thúc đẩy lẫn nhau giữa các lĩnh vực cơ bản này của đời sống xã hội. Người còn nhấn mạnh, đời sống có bốn mặt ngang nhau, không được tách rời và xem nhẹ một mặt nào: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Chỉ dẫn này có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong hoạch định chính sách để xây dựng và quản lý xã hội. Tuy không đề cập tới môi trường, nhưng trên thực tế, Người rất quan tâm và chú trọng tới môi trường tự nhiên sinh thái cũng như môi trường xã hội - nhân văn trong phát triển xã hội, phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (từ phát động Tết trồng cây, bảo vệ rừng, giữ gìn vệ sinh, phát huy các giá trị thuần phong, mỹ tục, đặc biệt về đạo đức, từ truyền thống đạo đức dân tộc đến đạo đức trong Đảng...).
Hồ Chí Minh gợi mở một tư tưởng lớn: phải làm cho chính trị thấm sâu vào đời sống dân gian. Không chỉ tuyên truyền chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách làm cho dân giác ngộ và dân tin tưởng, mà còn phải ra sức thực hành chính trị dân chủ, gây dựng chính thể dân chủ cộng hòa, ngày nay là Nhà nước pháp quyền. Muốn vậy, phải làm cho văn hóa, nhất là đạo đức cần, kiệm, liêm, chính của cán bộ, đảng viên và nhân dân thấm sâu vào trong hoạt động, đời sống, lối sống của mọi người, trước hết là trong Đảng, chính quyền, đoàn thể, ngày nay chúng ta gọi chung là hệ thống chính trị. Người có hai luận điểm rất quan trọng: “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ nhỏ đến lớn”, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Đó chính là sự thấm nhuần văn hóa, sự thẩm thấu văn hóa vào trong chính trị cũng như trong kinh tế và xã hội.
Ngày nay trong nhiều văn kiện, Đảng ta nhấn mạnh phải đầu tư cho văn hóa tương xứng với tầm vóc của nó, ngang với đầu tư cho kinh tế; đồng thời, phải đưa văn hóa vào trong chính trị, trong Nhà nước và hệ thống chính trị.
Đó là sự nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong xây dựng văn hóa chính trị, nhất là văn hóa trong Đảng, trong xây dựng Đảng về văn hóa.
Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta: “Gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất”, “Một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Ngày nay, Đảng ta nhấn mạnh trách nhiệm nêu gương, nhất là gương đạo đức liêm chính của người đứng đầu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hành tốt dân chủ và dân vận, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, giữ gìn và củng cố bền chặt niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Đó là một tài sản lớn, tài sản văn hóa, tạo ra tiềm năng và động lực cho sự phát triển đất nước, con người và dân tộc Việt Nam, đó cũng là giá trị và sức sống của Văn hóa Việt Nam hiện đại trong đổi mới, hội nhập theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là một nhà văn hóa lớn với tầm nhìn chiến lược, trong nhiều tác phẩm ở các thời kỳ quan trọng khác nhau, cảm quan văn hóa của Hồ Chí Minh luôn nổi bật. Trước khi Đảng ra đời, Người đã viết Đường Cách mệnh (1927). Khi Đảng đã cầm quyền, là chủ thể lãnh đạo và cầm quyền, Người viết hàng loạt tác phẩm mà tác phẩm nào cũng có sức nặng của văn hóa. Ngay cả thư từ, thơ catrả lời phỏng vấn của các nhà báo ở trong nước và ngoài nước - những hình thức đặc biệt về thể loại văn hóa của Người cũng thể hiện rất đậm nét nhận thức và ứng xử văn hóa của Người. Từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đến Quốc lệnh (1946-1947), từ Sửa đổi lối làm việc, bút danh X.Y.Z (năm 1947), Đời sống mới, bút danh Tân Sinh (năm 1947), Lời kêu gọi thi đua ái quốc (năm 1948), Dân vận (năm 1949), Thường thức chính trị (năm 1953), Cần kiệm liêm chính (năm 1958), cho đến các bài nói với văn nghệ sĩ, báo giới, trí thức trong suốt hai cuộc kháng chiến... đặc biệt là những tác phẩm cuối đời, kết tinh ở Di chúc (năm 1969)... Hồ Chí Minh đã dày công giáo dục toàn Đảng, toàn dân về đạo đức, về văn hóa. Người đã tận dụng mọi khả năng, sức ảnh hưởng của văn hóa vào công việc lãnh đạo, quản lý. Đó cũng là nơi thể hiện lý luận thực tiễn của Người và của Đảng ta về văn hóa. Cho nên, nghiên cứu sự phát triển, nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa không thể tách rời tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Chủ nghĩa Mác và xây dựng văn hóa Việt Nam năm 1948 của Tổng Bí thư Trường Chinh. Quan điểm của Đảng về văn hóa qua các văn kiện, nghị quyết thời kỳ đổi mới, nhất là trong văn kiện Đại hội XIII (năm 2021) và tại Hội nghị toàn quốc của Đảng kỷ niệm 75 năm Hồ Chí Minh phát biểu về văn hóa trước khi diễn ra toàn quốc kháng chiến (1946-2021) là những minh chứng điển hình.
 Ngày 24/11/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, trong không khí khẩn trương kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đại hội văn hóa cứu quốc khai mạc, Hồ Chí Minh đã phát biểu về văn hóa và rọi sáng con đường xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta, còn mãi giá trị khai sángthúc đẩy hành động cho toàn dân tộc: Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của dân tộc, của nhân dân ta làm cơ sở. Nền văn hóa mới phải có thể tiếp thu mọi cái hay, cái tốt của mọi nền văn hóa khác trên thế giới; nền văn hóa mới phải có sức mạnh chống lại những thói phù hoa xa xỉ, chống quan liêu và tham nhũng...
Người kêu gọi các nhà văn hóa hãy đặc biệt quan tâm tới các thiếu niên và nhi đồng, những người chủ tương lai của xã hội.
Người đã truyền đi một thông điệp: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tư tưởng coi văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển đã được Hồ Chí Minh nêu rõ, là nền tảng tư tưởng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng ta nói sau này.
Văn hóa gắn liền với đổi mới, phát triểnsáng tạo thông qua hội nhập. Chính Hồ Chí Minh đã nhạy cảm về vấn đề này từ rất sớm, cho ta tầm nhìn và phương pháp hành động.
3. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong đổi mới và hội nhập quốc tế - Những nhận thức mới của Đảng ta
Tư tưởng về văn hóa trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, đặc biệt trong tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong đó có gần 40 năm đổi mới. Có thể tóm tắt và khái quát những nhận thức mới đó như thế nào, hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, thực hiện khát vọng phát triển đất nước như hiện nay, cần phải làm gì để phát huy sức mạnh nội sinh của văn hóa, lấy đó làm động lực mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển.
Có thể nói, trong những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được có thành tựu quan trọng về văn hóa, về con người. Trên lĩnh vực này, Đảng ta có những nhận thức lý luận mới như thế nào?
Trước hết, đó là xác định tính chất, bản chất của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến, nội dung xã hội chủ nghĩa, thể hiện tinh thần thời đại, mang hình thức dân tộc, giữ gìn và phát huy truyền thống với các giá trị tinh hoa, các giá trị văn hóa trong truyền thống lịch sử kết hợp với các giá trị tinh hoa của thời đại, của thế giới. Tính dân tộc đồng thời thể hiện tính giai cấp (giai cấp công nhân Việt Nam) và tính nhân loại. Các thuộc tính văn hóa: dân tộc - đại chúng - khoa học tiếp tục được thể hiện trong nội dung, hình thức văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng đã ra nghị quyết quan trọng về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam với các đặc trưng: dân tộc - nhân văn - dân chủ và khoa học. Các đặc trưng này của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhấn vào giá trị nổi bật của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước, là đoàn kết - dân chủ - đồng thuận để phát triển, là tinh thần nhân đạo, nhân văn chủ nghĩa được thể hiện trong xây dựng phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam xứng tầm với chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa. Các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học của nền văn hóa Việt Nam chính là định hướng không chỉ xây dựng văn hóa mà còn là xây dựng, phát triển con người và hoàn thiện nhân cách. Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định phải ra sức xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam dựa trên nền tảng hệ giá trị gia đình, cái tế bào của xã hội này phải lành mạnh để xã hội, quốc gia - dân tộc, cộng đồng và từng gia đình, từng người phát triển bền vững. Nhận thức này thực sự là một bước tiến và ở tầm chiến lược. Khẳng định văn hóa là sức mạnh nội sinh của dân tộc, văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc, của xã hội cho thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, lại đặt vấn đề xây dựng con người toàn diện, đột phá nguồn nhân lực chất lượng cao, cả thể lực, trí lực và tâm lực... đó chính là làm sáng tỏ tiềm năng, tiềm lực và thực lực của Việt Nam trong phát triển, gắn liền mật thiết với văn hóa, với hội nhập.
Lại có một luận điểm của Hồ Chí Minh mà chúng ta kế thừa, vận dụng và phát triển: Chính trị, nghĩ rộng cũng là văn hóa, và văn hóa nghĩ sâu cũng là chính trị, tất yếu phải xây dựng văn hóa chính trị. Bản thân Bác là hiện thân mẫu mực của văn hóa chính trị, ứng xử chính trị bằng sự tinh tế của văn hóa, có tác dụng nêu gương thực hành cho tất cả chúng ta, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức...
Thứ hai, để xây dựng văn hóa và con người Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt chú trọng tới nền tảng tư tưởng (ý thức hệ tiên tiến của thời đại), tới các phẩm chất trí tuệ, nhân cách mà đạo đức là gốc của nhân cách, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, tới phát huy giá trị tinh hoa của dân tộc (yêu nước, đoàn kết, nhân ái, nghĩa tình) tới xu thế phát triển, nên phải nuôi dưỡng, phát huy nhân tài, năng lực sáng tạo, khắc phục những hạn chế, yếu kém của con người Việt Nam do những hạn chế của lịch sử để lại. Trong điều kiện đảng cầm quyền, Đảng thực trong sạch để thực vững mạnh là vô cùng quan trọng và có tính quyết định. Do đó, phải gắn liền xây dựng với chỉnh đốn Đảng, phải xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ và đã đến lúc phải tập trung xây dựng Đảng về văn hóa, đẩy mạnh giáo dục đạo đức, phẩm giá, lương tâm, danh dự trong Đảng, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo1.
Thứ ba, nhận thức rõ tính tất yếu của toàn cầu hóa, của hội nhập, Đảng ta đã chủ động, tích cực hội nhập để phát triển, từ hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế, nghĩa là hội nhập văn hóa, mở rộng nhãn quan văn hóa: Thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm những khác biệt, đề cao và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, áp dụng tiếp biến văn hóa để phát triển, thông qua tiếp xúc - giao lưu - đối thoại văn hóa.

_____________

1. Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.157-177.
Thứ tư, một vấn đề thiết thực, cốt yếu là giữ gìn bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập, xử lý mối quan hệ giữa thời cơ và thách thức trong phát triển, thông qua hội nhập, do đó, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/2021, Đảng ta nêu ra một thông điệp: Văn hóa còn thì dân tộc còn. Đó là quan điểm về định hướng phát triển văn hóa của Đảng ta trong đổi mới và hội nhập.
Có thể nói, từ thực tiễn đổi mới gần 40 năm qua, Đảng ta đã không ngừng tìm tòi, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đặc biệt là lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong hệ thống lý luận nền tảng đó có lý luận về văn hóa, dựa trên quan điểm, phương pháp mácxít, từ Đề cương về văn hóa Việt NamChủ nghĩa Mác với vấn đề văn hóa Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh và tầm tư tưởng chiến lược của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Thứ năm, trong sự phát triển lý luận về văn hóa của Đảng ta, từ yêu cầu đổi mới và hội nhập, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, tư duy lý luận của Đảng về văn hóa còn đề cập tới xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; tìm tòi các giải pháp đột phá để chấn hưng đạo đức dân tộc; khắc phục bằng được sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức trong Đảng và trong xã hội; xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa, gắn văn hóa với kinh tế, đổi mới phương thức đầu tư và phân bổ nguồn lực để văn hóa phát triển tương xứng với kinh tế và chính trị, cải cách thể chế phát triển, trong đó có thể chế văn hóa... liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực báo chí, xuất bản, truyền thông, bảo tồn, phát huy di sản, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là những định hướng và giải pháp quan trọng để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Với tư duy chiến lược về phát triển, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam dựa trên cơ sở hệ giá trị gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Đó thực sự là những bước tiến lớn về lý luận văn hóa của Đảng đang tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
 
NGUYÊN TẮC DÂN TỘC HÓA, QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VÀ THÀNH TỰU
   GS.TS. NGUYỄN CHÍ BỀN*
Đ
 
ược công bố từ năm 1943, đến nay Đề cương về văn hóa Việt Nam đã có tuổi đời tròn 80 năm. Trong ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa Việt Nam, nguyên tắc Dân tộc hóa được đặt ra đầu tiên. Tám mươi năm qua, nguyên tắc này đã được đổi mới và trong thực tiễn nền văn hóa Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, nhìn từ phương diện dân tộc. Bài viết này đề cập nguyên tắc dân tộc hóa, quá trình đổi mới tư duy về nguyên tắc dân tộc hóa và thành tựu của văn hóa Việt Nam từ góc tiếp cận tính dân tộc.
1. Nguyên tắc dân tộc hóa trong “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Mười ba năm sau ngày thành lập, năm 1943, Đảng ta đứng trước những bộn bề của công việc cấp bách, to lớn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho dân tộc, nhưng vẫn quan tâm đến công tác văn hóa, văn nghệ. Đảng đã có một chủ trương đúng đắn là giao cho đồng chí Trường Chinh (1907-1988), Tổng Bí thư của Đảng khi ấy khởi thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam, và thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (1943). Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam gồm 5 phần:
Phần I: Cách đặt vấn đề.
Phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam.
Phần III: Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp.

_____________

* Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
Phần IV: Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam.
Phần V: Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít ở Việt Nam.
Trong mục 4 của phần IV, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam ghi rõ:
“Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này.
a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn
hóa Việt Nam phát triển độc lập)”1.
Sau các phần “Đặt vấn đề”, giới thiệu khái quát về “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”, những “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp”, Đề cương dành phần IV để bàn về vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, trong đó mục 5 của phần này nhấn mạnh đến tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam, đó là “một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”2. Đề cương về văn hóa Việt Nam cũng nêu lên ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam, đó là: Dân tộc hóa, Đại chúng hóa, Khoa học hóa. Ba nguyên tắc đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới. Dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có lòng tự hào, dũng cảm đứng lên nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam. Sau này, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng nhấn mạnh: Đề cương văn hóa nêu lên những nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây là cuộc cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ bọn đế quốc, giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền làm chủ cho nhân dân lao động. Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Dân tộc hóa là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên.  Bởi nguyên tắc này khiến cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, và chủ thể sáng tạo văn hóa là quần chúng nhân dân, nhất là các tầng lớp trí thức ý thức được cả hai tư cách: tư cách người công dân và tư cách người trí thức -

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.23-24, 25-26.
nhà khoa học và nghệ sĩ, đang đứng trước một thời cuộc đêm trước của cách mạng. Ở cả hai tư cách, quần chúng nhân dân, cũng như người trí thức chỉ có thể chọn một con đường - con đường hướng về cách mạng và tham gia cách mạng để cứu nước, trong đó có bản thân mình và nghề nghiệp của mình.
Trong tiếng Việt, từ dân tộc được xác định là một cộng đồng dân tộc (nation), bao gồm nhiều thành phần tộc người. Tên gọi tộc người theo thuật ngữ quốc tế sử dụng là ethnie. So với ethnographie, tên gọi ethnie xuất hiện muộn (cuối thế kỷ XIX), do nhà Dân tộc học người Pháp Vacher de Lapouge đưa ra trong cuốn sáchLes seslections sociales(xuất bản tại Paris năm 1896), lúc đầu ethnie dùng để chỉ các nhóm tộc người (unité ethnique), sang thế kỷ XX thuật ngữ ethnie được công nhận rộng rãi trong ngành dân tộc học khắp các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Vấn đề đặt ra là hiểu cho đúng khái niệm dân tộc hóa. Vào thời điểm lịch sử năm 1943, khái niệm dân tộc còn đang là một khái niệm mới, là một từ Hán Việt nhưng bộ Từ nguyên, bộ Từ Hải của Trung Quốc không có từ dân tộc. Năm 1899, Lương Khải Siêu (1873-1929), một nhà cách mạng Trung Quốc, trong bài viết của ông mới dùng từ dân tộc. Và các nhà dân tộc học mácxít đánh giá cao và sử dụng tác phẩm Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc của J. Staline (1878-1953). Tác phẩm này được viết cuối năm 1912, đầu năm 1913, công bố trên Tạp chí Giáo dục ở Nga, số 3, 4, 5, năm 1913, rồi mới được in thành sách năm 1914. J. Staline cho rằng, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, thành lập trong quá trình lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và về cấu tạo tâm lý biểu hiện trong cộng đồng về văn hóa. Ở nước ta, năm 1955, Nhà xuất bản Sự thật mới công bố tập sách này. Tuy nhiên, trước năm 1945, Đảng ta đã khẳng định nguyên tắc thứ nhất của cuộc vận động văn hóa Việt Nam là dân tộc hóa. Từ thực tiễn, Đảng ta đã xác định nguyên tắc Dân tộc hóa và khẳng định đây là nguyên tắc số 1 của cuộc vận động văn hóa Việt Nam mới, chưa hẳn khi ấy các nhà lãnh đạo của Đảng ta đã tiếp nhận cuốn sách này của J. Staline, mà đã xác định văn hóa Việt Nam phải vận động theo nguyên tắc này. Phải chăng, đây là sáng tạo lý luận hết sức mới mẻ của Đảng ta trong lãnh đạo sự nghiệp văn hóa từ thực tiễn Việt Nam!
2. Đổi mới tư duy về nguyên tắc dân tộc hóa
Khi lãnh đạo dân tộc ta đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giữa bộn bề công việc của những ngày đầu lãnh đạo đất nước, Đảng ta rất quan tâm thực hiện Đề cương văn hóa đã công bố năm 1943.
Về mặt tổ chức, Đảng ta xây dựng tổ chức để thực tiễn hóa tư tưởng của Đề cương văn hóa năm 1943. Ngày 24/11/1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc tại Nhà hát Lớn Thành phố Hà Nội. Hội nghị dự định làm việc trong 3 ngày, nhưng do tình hình chiến sự căng thẳng tại Hải Phòng và đang có nguy cơ bùng nổ sớm ở Hà Nội, nên Hội nghị đã bế mạc ngay sau 1 ngày làm việc khẩn trương. Hơn 200 nhà hoạt động văn hóa tiêu biểu trong cả nước về tham dự Hội nghị. Trong Diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”1. Cũng trong diễn văn khai mạc này, Người khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”2. Tại Hội nghị, trong Báo cáo của Ủy ban vận động văn hóa toàn quốc đã nêu bật những thành tích đạt được, đồng thời kêu gọi tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và đề ra nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị bầu Ủy ban Văn hóa toàn quốc gồm 15 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Thành công to lớn của Hội nghị đã đặt cơ sở quan trọng cho nền văn hóa mới Việt Nam về phương diện tổ chức. Vẫn trong những năm tháng đầy gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, họp từ ngày 16 đến ngày 20/7/1948 tại Việt Bắc. Trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Từ ngày chính quyền dân chủ thành lập đến nay, các nhà văn hóa ta đã cố gắng và đã có thành tích. Song từ nay trở đi

_____________

  1. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.3, tr.321.
  1. Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.11.
chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân”1. Ngày 18/7/1948, thay mặt Đảng ta, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đã trình bày báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Báo cáo đã hệ thống hóa, cụ thể hóa và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng, có giá trị như là Cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Báo cáo nêu 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa: 1- Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; 2- Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng, mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ; 3- Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; 4- Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; 5Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa, hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hóa thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; 6- Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam. Ba ngày sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25/7/1948. Hơn 80 văn nghệ sĩ đại biểu cho các ngành văn học, sân khấu, âm nhạc, kiến trúc, mỹ thuật từ các nẻo đường kháng chiến đã về dự Hội nghị. Tại sự kiện quan trọng này, Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập năm 1943. Từ năm 1950 trở đi, mô hình xây dựng văn hóa kháng chiến có sự điều chỉnh, hình thức “hội nghị văn hóa toàn quốc” không còn được sử dụng, nhưng đường lối, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của văn hóa, văn nghệ tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”2. Người khẳng định rõ vai trò xung kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc. Văn hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác,

_____________

1, 2. Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Sđd, tr.18.
không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”1. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc hòa bình thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện cho miền Nam đấu tranh thống nhất đất nước. Tháng 9/1960, Đại hội III của Đảng được tiến hành, nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 30/4/1975, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đất nước thống nhất. Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp xác định xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Tháng 3/1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp, chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước ta trăn trở tìm con đường đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định rõ quan điểm này. Từ đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới văn hóa. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị khóa VI khẳng định: Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc... Cần kết hợp hài hòa và nâng cao tinh hoa văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước ta... Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được Đảng quan tâm sâu sắc hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã xác định nền văn hóa

_____________

1. Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Sđd, tr.13.
mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định rõ hơn. Quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, lần đầu đưa khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”1. Nghị quyết khẳng định: “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”2. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về   xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...”3. Và trong 5 quan điểm chỉ đạo có 2 quan điểm liên quan đến vấn đề dân tộc: “2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”4. Do đó, văn kiện này không chỉ là một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới. Bởi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã bổ sung và phát triển toàn diện, sâu sắc đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại từ quan niệm về văn hóa, vị thế, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển; từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

_____________

1, 2, 3, 4. Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.47, 50, 61, 62.
Tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội IX của Đảng (4/2001) yêu cầu: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”..., làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”1. Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị khóa IX đã ra Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008, về       “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà. Đại hội X của Đảng (4/2006) khẳng định: Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội X và XI của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội            (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.999.
phát triển là nhiệm vụ quan trọng. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế, yếu kém: phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Tuy xác định “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ, hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần. Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” đã cho thấy sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng trong nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người, trong xác định phương hướng, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người; cho thấy hệ thống quan điểm sau đã kế thừa được các quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa ở các thời kỳ trước đó, đồng thời đã tiếp thu những tinh hoa lý luận về văn hóa, văn nghệ của thế giới theo tinh thần đổi mới của Đảng. Các Đại hội XII, XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học...            Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện  phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”1. Cuối nhiệm kỳ

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.126-127.
khóa XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4/6/2020 về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó đã xác định các nội dung, định hướng lớn: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Kết luận số 76-KL/TW tiếp tục được khẳng định, nâng cao trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”1 .
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 19/5/2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng có bài viết quan trọng và sâu sắc: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Trong bài viết, đồng chí khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội      là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng,   dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.
xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”1.
Như vậy, từ nhận thức văn hóa bao gồm: tư tưởng, học thuật, nghệ thuật trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến việc mở rộng nội hàm văn hóa bao gồm: tư tưởng, đạo đức, lối sống, khoa học, giáo dục - đào tạo, thông tin đại chúng, văn học - nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI; từ nền văn hóa mới với các tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng; dân tộc là hình thức, tân dân chủ là nội dung (1943) đến xác định nền văn hóa của ta “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, đã phát triển lên bước mới khi khẳng định nền văn hóa của ta mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn (Hiến pháp năm 1992), xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998), xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại (Hiến pháp năm 2013). Từ quan niệm “phải hoàn thành cách mạng văn hóa thì mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” (1943), cách mạng tư tưởng - văn hóa là động lực (Đại hội IV) đến “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Từ ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa (1943) đến tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước. Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Nhìn lại các văn kiện của Đảng về vấn đề tính dân tộc của nền văn hóa từ năm 1943 đến nay để thấy những tìm tòi, sáng tạo lý luận về văn hóa của Đảng gắn liền với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng

_____________

1. Xem Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr.5-7.
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các quan điểm lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới cần được nhận thức đầy đủ, nâng cao sức tỏa sáng để tiếp tục “soi đường cho quốc dân đi”, làm nền tảng tinh thần vững chắc cho đổi mới và phát triển.
3. Thành tựu của quá trình thực hiện nguyên tắc dân tộc hóa - một số phác thảo
Như đã phân tích ở trên, từ ba nguyên tắc vận động của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mà Đảng ta công bố năm 1943, tư duy lý luận văn hóa của Đảng ta luôn đổi mới. Vì thế, trong thực tiễn, thành tựu rõ ràng và vĩ đại. Có thể thấy thành tựu ở các phương diện. Phạm vi bài viết như chúng tôi xác định chỉ xin đề cập thành tựu của quá trình thực hiện nguyên tắc dân tộc hóa.
Nguyên tắc dân tộc hóa ra đời được hai năm thì dân tộc Việt Nam đã giành được chính quyền để xây dựng nền văn hóa của dân tộc. 78 năm trôi qua, dù cả dân tộc phải thực hiện cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc ở phía Nam, phía Bắc và ở Biển Đông, chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa dân tộc. Nói cách khác, nguyên tắc dân tộc hóa trở thành nguyên tắc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Có hai giai đoạn: thứ nhất là khi Đảng ta còn hoạt động bí mật, chưa là lực lượng lãnh đạo quốc gia từ năm 1943 đến tháng 8/1945; thứ hai là từ tháng 8/1945 đến nay, là chủ thể lãnh đạo toàn diện đất nước có nhiệm vụ xây dựng và quản lý nền văn hóa Việt Nam. Trong giai đoạn thứ hai này, có thể phân chia thành ba giai đoạn: từ năm 1945 đến năm 1975; từ năm 1975 đến năm 1986 và từ năm 1986 đến nay. Có thể thấy thành tựu thực thi nguyên tắc dân tộc hóa ở nhiều cấp độ, nhiều phương diện. Trước hết nền văn hóa của Việt Nam đã được khẳng định là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa của 54 tộc người tạo thành sự thống nhất trong đa dạng về văn hóa.
Về văn bản pháp quy, các luật, pháp lệnh trong lĩnh vực văn hóa đều thể hiện sự đổi mới tư duy về nguyên tắc dân tộc hóa.
Về phương diện tổ chức, chúng ta đã xây dựng một hệ thống các hội nghề nghiệp từ Trung ương đến địa phương. Nếu trước năm 1945, chúng ta có Hội Văn hóa cứu quốc hoạt động bí mật thì nay có cả một đội ngũ hùng hậu các hội chuyên ngành ở các thành tố của văn hóa, nghệ thuật. Chỉ riêng Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố, với số lượng hội viên đông đảo và hoạt động có chất lượng là bằng chứng chứng tỏ nguyên tắc dân tộc hóa được thực hiện một cách rõ ràng có kết quả to lớn.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc quảng bá di sản văn hóa các dân tộc thiểu số được chú trọng và đạt kết quả to lớn. Các di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số như cồng chiêng Tây Nguyên, xòe thái, then của người Tày, Nùng đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, gốm Bàu Trúc của người Chăm được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Khu di tích Mỹ Sơn của người Chăm được UNESCO vinh danh là Di sản thế giới.
*
*      *
Nguyên tắc dân tộc hóa mà Đảng ta đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nay đã có lịch sử 80 năm. Rõ ràng, từ lý luận đến thực tiễn, nguyên tắc dân tộc hóa đã được Đảng ta quán triệt và đổi mới, thực hiện trọn vẹn, sâu sắc. Kết quả thực hiện trong đời sống văn hóa chứng tỏ nguyên tắc này được quán triệt và đổi mới liên tục, tiếp cận sự đổi mới của tư duy nhân loại về văn hóa và vấn đề dân tộc của văn hóa. Thành tựu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc khẳng định sức sống của nguyên tắc này.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” TỪ LÝ LUẬN ĐẾN NHỮNG GIÁ TRỊ THỰC TIỄN
ThS. NGUYỄN MẠNH CƯỜNG*
1. Dẫn luận
Đề cương văn hóa được ra đời vào thời kỳ khó khăn nhất của phong trào cách mạng Việt Nam. Vào những năm 1940 của thế kỷ XX, người dân đang chịu sự áp bức bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển và đi vào chiều sâu. Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh (Việt Nam Độc lập Đồng minh) ra đời theo quyết định của Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đây cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc đã mở rộng sang các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực văn hóa nhằm hình thành một phong trào văn hóa tiến bộ, những tổ chức văn hóa cứu quốc thu hút mọi tầng lớp nhân dân và các nhà văn hóa, trí thức trong xã hội.
Để thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương thông qua Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng trực tiếp soạn thảo. Đây là một văn kiện được ví như tuyên ngôn đầu tiên của Đảng về văn hóa, có ý nghĩa khai sáng và mở đường cho sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ thuật của nước ta sau này.
Trải qua thời kỳ lịch sử cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới đã khẳng định giá trị to lớn của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Hội thảo khoa học quốc gia “80

_____________

* Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023) - Cội nguồn và động lực phát triển” là dịp để chúng ta nhận thức rõ hơn những giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Đồng thời, cũng là dịp để chúng ta xác định rõ về nhiệm vụ, chiến lược lâu dài trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nhằm hướng tới thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng.
2. Vai trò của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Đất nước ta đã trải qua biết bao biến cố lịch sử cùng với những thắng lợi to lớn của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là quãng thời gian đủ dài để khẳng định những giá trị lịch sử, cũng như ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Ở những nét chung nhất, Đề cương văn hóa đã đề cập đến cách đặt vấn đề về văn hóa, lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam, nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp, vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít ở Việt Nam.
Đề cương văn hóa đã nêu ra những vấn đề cụ thể đối với người cộng sản Đông Dương cần phải có trong lĩnh vực văn hóa, đó là: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa mà ở đó người cộng sản phải hoạt động; không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa; có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả. Trong thời gian này, Đề cương văn hóa còn nêu ra ba nguyên tắc hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, đó là: 1- Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). 2- Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). 3- Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Những nguyên tắc cơ bản của Đề cương văn hóa chỉ ra (dân tộc - đại chúng - khoa học) là nội dung cốt lõi của mục tiêu xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ VII của Đảng (1991), đã xác định rõ vai trò vô cùng quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội, đó là: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội”. Qua những văn kiện của Đại hội Đảng sau này cho tới Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII có ghi: “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”1 đã chứng minh rõ quan điểm nhất quán về lĩnh vực văn hóa và những nguyên tắc cơ bản này luôn được bổ sung, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn phát triển của đất nước. Chúng ta luôn thấy rõ quan điểm về bản sắc dân tộc trên lĩnh vực văn hóa qua các thời kỳ luôn là nguyên tắc, bất di bất dịch của Đảng, trong khi quan điểm về tiên tiến được hiểu rộng hơn, đó là nền văn hóa mới mang tính chất đại chúng (là văn hóa của dân, do dân và vì dân).
Yếu tố (dân tộc - đại chúng - khoa học) về lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trong Đề cương văn hóa được nhất quán trong các nhiệm vụ của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, đó là: 1- Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn. 2- Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. 3- Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa. Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan trong toàn xã hội. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu;

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.57, tr.246.
nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng quan điểm (dân tộc - đại chúng - khoa học) của Đề cương văn hóa được vận dụng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã làm chuyển biến tích cực nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được bảo tồn và phát huy. Sản phẩm văn hóa nghệ thuật ngày càng phong phú, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật đã phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo và phục dựng; các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển văn hóa và đem lại cho văn hóa một diện mạo mới đàng hoàng hơn, hiện đại hơn, sôi động hơn. Đối tượng được hưởng lợi đầu tiên chính là những người lao động, họ đã được tiếp cận dễ dàng hơn với các sản phẩm văn hóa, được trực tiếp tham gia vào đời sống văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Có thể nhận thấy, Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực xây dựng tổ chức bộ máy quản lý văn hóa, xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa, cũng như đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
  1. Vận dụng sáng tạo Đề cương văn hóa vào mục tiêu gìn giữ và phát huy văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã tròn 80 năm, là khoảng thời gian để chúng ta tiến hành đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI. Bên cạnh những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa nghệ thuật, thông tin đại chúng, xây dựng thể chế văn hóa và giao lưu văn hóa với nước ngoài, thì môi trường văn hóa còn thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục; còn thiếu những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa còn hạn chế.
Tình trạng nhập khẩu thiếu chọn lọc các sản phẩm văn hóa đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân; xu hướng lai căng, xa rời cội nguồn văn hóa dân tộc ở một bộ phận lớp trẻ chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu khoa học, gây lãng phí nguồn lực; còn nhiều điểm trắng văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt ở vùng các dân tộc thiểu số. Không ít địa phương còn quan niệm coi văn hóa là “cái đuôi” của kinh tế, văn hóa là lĩnh vực “tiêu tốn” của cải, không làm ra của cải vật chất và là gánh nặng của kinh tế nên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư tài chính cho hoạt động văn hóa đã bị xem nhẹ. Nguyên nhân kể trên đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước”.
Đứng trước thời cơ và thách thức trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Đó là: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”. Để phát triển lĩnh vực văn hóa và con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, cần vận dụng sáng tạo những quan điểm, lý luận của Đề cương văn hóa vào thực tiễn, mà trong đó yếu tố (dân tộc - đại chúng - khoa học) luôn được nhất quán để đưa ra phương hướng phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là:
  1. Quan điểm dân tộc trong bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu thì quan điểm dân tộc trong bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống luôn được đặt ra mang tính cấp thiết, nhằm chống lại sự ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai trái với thuần phong, mỹ tục và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế và đổi mới tư duy, nhận thức về vai trò vô cùng quan trọng của văn hóa trên mọi lĩnh vực xã hội sẽ ngày càng sâu sắc, được thể hiện bằng những chính sách, những việc làm cụ thể. Văn hóa sẽ ngày càng phát huy vai trò của mình vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nền tảng tinh thần phát triển kinh tế - xã hội. Đất nước chỉ có thể phát triển bền vững khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhận thức này càng thấm sâu vào các suy nghĩ, hành động của những người hoạch định chính sách và toàn thể cộng đồng sẽ đem lại diện mạo mới cho sự nghiệp phát triển văn hóa nước nhà.
Sự tham gia ngày càng tích cực của người dân vào quá trình sáng tạo và hưởng thụ văn hóa sẽ tạo nhiều cơ hội bình đẳng trong quá trình tiếp cận, cũng như gìn giữ hiệu quả những giá trị văn hóa truyền thống. Đây là biểu hiện tất yếu của tiến trình dân chủ hóa đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đang triển khai rộng khắp. Văn hóa ngày càng trở thành một sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đó chính là hướng đi đúng đắn mang lại sinh khí mới cho văn hóa. Trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền văn hóa dân tộc sẽ không tránh khỏi những thử thách ngặt nghèo. Vì vậy gìn giữ bản sắc dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bởi vì đánh mất bản sắc dân tộc là mất hết. Quá trình giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa với các nước trên thế giới nếu được định hướng đúng đắn, sẽ đem lại những lợi ích to lớn cho sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Tuy nhiên chúng ta cũng phải biết loại bỏ những bất cập để tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại và biến nó thành nguồn lực phát triển đất nước, giữ gìn và phát triển nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác giáo dục, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và cộng đồng về vị trí, vai trò của văn hóa dân tộc trong đời sống. Các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với lĩnh vực văn hóa, đặt văn hóa vào vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
  1. Quan điểm khoa học trong quản lý nhà nước đối với văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức, sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Không nằm ngoài quy luật khách quan, các hoạt động của con người từ kinh tế, chính trị, văn hóa phải chịu sự tác động quản lý của tổ chức, hoặc cơ quan chuyên môn nằm trong hệ thống quản lý nhà nước. Bởi vậy quan điểm khoa học trong quản lý nhà nước nhằm chống lại những tiêu cực, phản tiến bộ trong các hoạt động văn hóa. Tuy nhiên để làm được việc trên đòi hỏi chủ thể quản lý nhà nước phải có trình độ và phương pháp quản lý khoa học. Trong tiến trình hội nhập toàn diện với thế giới thì văn hóa dân tộc là nhân tố quan trọng ngăn chặn sự xâm lược về văn hóa, nhưng đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng từ bên ngoài nếu công tác quản lý nhà nước bị xem nhẹ. Vì vậy, ở cương vị dẫn dắt toàn xã hội, nhà nước cần sử dụng mọi công cụ từ giáo dục đến truyền thông đại chúng để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về tầm quan trọng của giao lưu văn hóa và đa dạng văn hóa trong sự phát triển chung của xã hội.
Nhà nước cần thương thảo về giao lưu văn hóa và đa dạng văn hóa với các nước trên thế giới. Việc tham gia thảo luận quốc tế nhằm tìm kiếm sự đồng thuận các quy tắc, tiêu chuẩn, thông lệ ở cấp độ quốc gia và cấp độ quốc tế về đa dạng văn hóa là một yêu cầu khá cấp bách. Trong lĩnh vực văn hóa, công tác quản lý nhà nước cần kiên trì nguyên tắc bảo hộ đối với các sản phẩm công nghiệp văn hóa. Bởi sản phẩm văn hóa mang những giá trị đặc trưng của các dân tộc thiểu số. Nếu chỉ coi sản phẩm văn hóa là một hàng hóa thuần túy, bắt nó phải tuân thủ hoàn toàn quy luật thị trường thì vô hình chung sẽ dẫn tới sự độc tôn của các sản phẩm văn hóa các nước có nền công nghiệp văn hóa

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
hùng mạnh; điều này gần như đồng nghĩa với sự triệt tiêu các sản phẩm văn hóa của các nền công nghiệp văn hóa non trẻ, cũng có nghĩa là triệt tiêu đáng kể sự đa dạng văn hóa các dân tộc.
Nhà nước cần đóng vai trò định hướng phát triển các hoạt động văn hóa truyền thống, đồng thời cần phải phân biệt những gì cần gìn giữ, phát huy và những gì đã lạc hậu cần loại bỏ dần trong đời sống. Tuy nhiên điều này cần được tiến hành một cách thận trọng trên cơ sở điều tra, nghiên cứu dư luận xã hội và tham khảo ý kiến đóng góp của các chuyên gia nhằm tránh sự nóng vội, khiên cưỡng. Bên cạnh đó, cần tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực văn hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa cần phải khoa học, sáng tạo để văn hóa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân và người dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là khách thể hưởng thụ các thành tựu của văn hóa đem lại. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ công nghệ thông tin; từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn của nước ta.
3.3. Quan điểm đại chúng trong xây dựng môi trường văn hóa
Quan điểm về đại chúng trong xây dựng môi trường văn hóa là nhằm chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa quần chúng. Mục tiêu của đại chúng hóa trong môi trường văn hóa là hướng đến yếu tố con người, bởi con người là chủ thể của văn hóa. Muốn có môi trường văn hóa lành mạnh trước hết cần có một môi trường xã hội lành mạnh hướng đến công bằng, văn minh, dân chủ. Vì vậy cần thực hiện nghiêm túc quy chế xác lập các thiết chế dân chủ ở cơ sở, đi đôi với hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương xuống địa phương; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giải quyết triệt để tệ nạn quan liêu, tham nhũng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Môi trường văn hóa lành mạnh còn gắn liền với hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm giảm thiểu sự tác động của các sản phẩm văn hóa độc hại thấm sâu vào mọi đời sống xã hội. Chúng ta không thể nói đến văn hóa khi sống trong một môi trường ô nhiễm độc hại, do đó vấn đề giáo dục người dân có ý thức giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng đến việc thi hành những quy định bảo vệ môi trường là việc làm cấp thiết. Môi trường văn hóa còn gắn liền với môi trường công sở, cộng đồng, khu dân cư nên cần đẩy mạnh phong trào xây dựng văn hóa nơi công sở, các khu dân cư văn hóa để trở thành những điểm sáng văn hóa và phong trào này cần đi vào thực chất, tránh hình thức, phô trương. Bên cạnh đó cần hoàn thiện và phát triển lành mạnh các thiết chế văn hóa cơ sở, khuyến khích các hình thức sinh hoạt văn hóa theo hướng phát huy tính chủ động, tính tự quản của cộng đồng có sự hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan chức năng, như vậy mới có thể đẩy lùi những hiện tượng không lành mạnh trong sinh hoạt văn hóa cơ sở, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, lứa tuổi dễ rơi vào sa ngã, cạm bẫy. Môi trường gia đình trong xây dựng môi trường văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng bởi cùng với nhà trường và xã hội, gia đình có tác dụng quyết định tới việc nuôi dưỡng và hình thành nên nhân cách của mỗi con người. Vì vậy cần nâng cao vai trò của người phụ nữ trong việc nuôi dạy con cái về những giá trị đạo đức, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Cuối cùng là vấn đề nguồn lực dành cho xây dựng môi trường văn hóa. Nếu nói đến nguồn lực dành cho văn hóa thì trước hết đó là nguồn lực con người, nguồn nhân lực cán bộ. Văn hóa tuy hiện diện ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội, nhưng điều này không làm mất đi tính đặc thù của hoạt động văn hóa. Vì vậy phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ văn hóa ở bậc đại học và sau đại học. Nguồn lực là sức mạnh của tổ chức và nếu được sắp xếp trong bộ máy hợp lý sẽ hạn chế được tình trạng chồng chéo và nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động văn hóa. Nguồn lực dành cho xây dựng môi trường văn hóa nằm trong cơ chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan, đơn vị liên quan. Nếu thiếu sự phối hợp đồng bộ này thì sức mạnh của nguồn lực dành cho phát triển môi trường văn hóa sẽ bị hạn chế. Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì vậy tạo nguồn lực để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phải thực thi một cách hữu hiệu hệ thống các chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nhằm huy động tối đa nhân lực, vật lực trong cộng đồng để xây dựng một nền văn hóa đại chúng (của dân, do dân và vì dân). Ở đây Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng về chính sách và tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động văn hóa, đầu tư có trọng điểm vào lĩnh vực then chốt, bên cạnh việc huy động các nguồn lực từ cộng đồng tham gia đầu tư phát triển môi trường văn hóa. Cần có cơ chế cụ thể cho phép các tập thể, cá nhân ở trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh văn hóa, vào việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa mà trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Đồng thời chú trọng thực thi Luật bảo hộ bản quyền tác giả, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm quyền hợp pháp và bình đẳng trong môi trường văn hóa.
*
                                                                                       *         *
Từ khi ra đời đến nay, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã và đang khẳng định mạnh mẽ vai trò lịch sử to lớn của mình trước vận mệnh của dân tộc. Đây là dịp để chúng ta thấy được những giá trị soi đường, tác dụng định hướng của Đề cương văn hóa. Qua đó nhận thức đúng hơn nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới. Chúng ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội lớn, song cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức của toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường đặt ra cần phải giải quyết.
Nhà nước cần có chính sách cụ thể giúp văn nghệ sĩ sáng tạo những tác phẩm tốt và coi trọng phổ biến các tác phẩm có giá trị. Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ trẻ và chăm lo bồi dưỡng các nhân tài văn hóa. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật cần phải hướng tới công chúng, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Có chính sách xây dựng thị trường văn hóa giàu tính tư tưởng, nhân văn và có sức đề kháng trước những sản phẩm văn hóa độc hại. Làm tốt công tác phê bình và tổng kết thực tiễn để hoàn thiện hơn nữa tư duy lý luận xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
VÀ HỆ NGUYÊN TẮC VẬN ĐỘNG, XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở NƯỚC TA
ThS. PHẠM VŨ DŨNG)
Đ
 
ến nay, đã tròn 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, đi vào thực tiễn cách mạng và phát huy tác dụng rộng lớn, sâu sắc trong đời sống văn hóa của dân tộc. Những quan điểm, luận chứng, ý kiến được nêu lên trong Đề cương về văn hóa Việt Nam với khá nhiều nội dung bao quát, trong đó có nhiều vấn đề, đến nay, vẫn còn giữ nguyên giá trị cũng như tính thời sự của nó, chẳng hạn: phạm vi của vấn đề văn hóa bao gồm cả tư tưởng học thuật và nghệ thuật; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; quan niệm của người cộng sản về vấn đề văn hóa; tính chất xã hội chủ nghĩa của nền văn hóa; nguyên tắc vận động văn hóa; nhiệm vụ của các nhà hoạt động văn hóa..., góp phần giúp chúng ta nhận dạng và thúc đẩy việc xây dựng, phát triển văn hóa theo hướng bền vững; gia tăng sức mạnh hội nhập của văn hóa Việt Nam với văn hóa nhân loại.
1. Nhìn sơ quát hành trình lý luận và thực tiễn văn hóa văn nghệ cách mạng, có thể thấy, trong suốt chặng đường dài đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều quan điểm, đường lối, chủ trương, giải pháp đúng đắn và cụ thể về văn hóa, tạo động lực to lớn cho cả dân tộc vừa kháng chiến kiến quốc, vừa xây dựng đời sống văn hóa phong phú, đa dạng. Ngay từ những năm 1930 của thế kỷ XX, trong

_____________

) Thường trực Hội đồng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương (1930), Đảng ta đã sớm đề ra những định hướng và nhiệm vụ quan trọng về xây dựng văn hóa trong đời sống thực tiễn như mở trường học, làm báo, vận động đọc sách báo cách mạng... để thức tỉnh lòng yêu nước, mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài và xây dựng xã hội. Đến Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943), hệ nguyên tắc vận động và thực hành văn hóa (gồm ba nội hàm dân tộc, đại chúng, khoa học) đã được chú trọng, khẳng định như là một phương châm xây dựng, phát triển văn hóa và bản thân văn hóa được nâng tầm như một mặt trận trong ba mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa. Năm 1948, về mặt lý luận, tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, với việc đề ra những nội dung về quan hệ văn hóa và xã hội, về lập trường văn hóa mácxít, văn hóa dân tộc, văn hóa dân chủ mới, mặt trận văn hóa thống nhất, về một số vấn đề cụ thể trong lý luận, phê bình văn học nghệ thuật..., đã khẳng định một cách toàn diện quan điểm văn hóa mácxít nhằm xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam gồm cả ba tính chất dân tộc, đại chúng, khoa học; về mặt thực tiễn, tác phẩm Đời sống mới của Tân Sinh (Hồ Chí Minh) đã đề cao và kêu gọi thực hành xây dựng đời sống văn hóa mới, nếp sống mới trong quảng đại quần chúng nhân dân... Sau đó, trong từng thời kỳ, các quan điểm về việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó có cách mạng tư tưởng văn hóa; phát triển nền văn hóa mang nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc; xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; văn hóa là một trong ba chân kiềng quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... đã được Đảng ta đề xướng, triển khai và ngày càng có ý nghĩa động lực cho sự phát triển đời sống xã hội. Như vậy, có thể thấy, cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn, cả trong đường lối của Đảng lẫn trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề xây dựng thể chế văn hóa, hoàn thiện chính sách văn hóa, phát triển văn hóa, con người theo hướng bền vững ngày càng được quan tâm đặc biệt, ngày càng được đánh giá cao hơn trong vai trò là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trước đây và trong giai đoạn hội nhập toàn diện hiện nay.
2. Trong hành trình lý luận và thực tiễn văn hóa văn nghệ cách mạng ấy, nổi lên vai trò cương lĩnh, dẫn dắt, nền tảng của văn kiện Đề cương về văn hóa Việt Nam. Có thể nói, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thực sự trang bị một vũ khí tư tưởng sắc bén cho các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa; đã đặt nền móng cho việc hình thành đường lối phát triển văn hóa ở nước ta. Ba nguyên tắc vận động văn hóa trong Đề cương về văn hóa Việt Nam có thể được coi là động lực và định hướng cho việc xây dựng, phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam từ đó đến nay. Trên cơ sở khẳng định phạm vi khái niệm văn hóa; tính chất, mục tiêu và nhiệm vụ của cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta trong bối cảnh thực tiễn lịch sử, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề ra hệ nguyên tắc vận động văn hóa gồm ba nguyên tắc lớn, cốt lõi, cơ bản nhằm bảo đảm cho sự thắng lợi của cách mạng văn hóa ở nước ta. Đó là dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). Khi cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc đang trở thành vấn đề cấp thiết số một thì nguyên tắc dân tộc hóa là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”, là đưa văn hóa trở về với đại chúng, là vì đại chúng, phục vụ đại chúng chứ không thể vì một đối tượng nào khác. Đây thực sự là một sự thay đổi tận gốc, là cuộc cách mạng chứ không phải là một xu hướng cải cách mang tính cải lương. Nêu phương châm dân tộc hóa lên đầu tiên, gắn nó với cuộc cách mạng giành độc lập cho đất nước như là nhiệm vụ hàng đầu của văn hóa chính là đưa văn hóa áp sát đời sống, làm cho nó hữu ích, thiết thực với quảng đại quần chúng. Khoa học hóa văn hóa giai đoạn này chính là đánh đổ mọi nhận thức sai lầm về con đường phát triển của xã hội “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”, mà thực chất là chống lại tư tưởng Đại Đông Á của Nhật và tư tưởng nô dịch và những quan niệm duy tâm, siêu hình đang đè nặng lên đời sống tinh thần của nhân dân. Đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”1. Có thể khẳng định đây là hệ nguyên tắc hết sức quan trọng trong quá trình vận động văn hóa, tạo cơ sở, động lực cho hoạt động văn hóa, khiến hình thành và phát triển đời sống văn hóa mới ở nước ta khi đó và những năm sau này. Một điều cần nhấn mạnh, sở dĩ Đề cương về văn hóa Việt Nam tách riêng và nhấn mạnh từng nguyên tắc là bởi nhu cầu khẳng định tầm quan trọng của từng nguyên tắc trong tổng thể chung của một hệ nguyên tắc nhất quán. Thực chất, cả trong lý luận và thực tiễn, ba nguyên tắc này thống nhất hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động và chi phối lẫn nhau. Nếu chỉ nhấn mạnh dân tộc hóa, tức làm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, mà coi nhẹ tính khoa học, tính đại chúng thì rất dễ dẫn tới bảo thủ, lạc hậu, cực đoan, khó hòa nhập được với quốc tế. Nhưng nếu chỉ chú ý tới khoa học hóa, bỏ quên tính dân tộc, tính đại chúng thì nền văn hóa sẽ đánh mất cá tính, phong vị, bản sắc dân tộc, trở nên xa lạ với nhân dân... Về mối quan hệ thống nhất và tác động lẫn nhau giữa ba nguyên tắc vận động văn hóa, đồng chí Trường Chinh, từ những năm 1980 của thế kỷ XX cũng đã có những phân tích khá sáng rõ: “Một nền văn hóa dân tộc mà không có tính khoa học và nhân dân thì rất có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp hòi của dân tộc mình mà đi ngược lại bước đường tiến hóa của lịch sử, cố níu kéo những cái cổ truyền đã lỗi thời của dân tộc mình mà không đặc biệt chú ý đến những nguyện vọng tha thiết của công nông là số đông người cần cù và yêu nước nhất trong dân tộc. Văn hóa có tính nhân dân mà không có tính dân tộc và khoa học thì sẽ trở nên hẹp hòi, chỉ nhìn thấy lợi ích công nông mà không chú ý lợi ích chung cả dân tộc, hoặc theo đuôi quần chúng”2. Do vậy, việc thực hành ba nguyên tắc vận động văn hóa càng nhuần nhuyễn, thống nhất, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử bao nhiêu thì hiệu quả vận động văn hóa, hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa mới càng to lớn và thiết thực bấy nhiêu.

_____________

  1. Xem Phạm Quang Long: Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943: Ý nghĩa khai phóng của một cuộc cách mạng văn hóa, baovanhoa.vn, 08/02/2023.
  2. Trường Chinh: Về văn học nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1986, tr.361.
  3. Như vậy, những quan điểm được thể hiện qua hệ nguyên tắc trên, có thể thấy rằng ngay từ rất sớm, Đảng ta đã định hướng rất đúng đắn đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa ở nước ta. Đó là nền văn hóa dân tộc; nền văn hóa khoa học, tiến bộ; nền văn hóa của quảng đại quần chúng nhân dân. Những nội dung này, qua từng chặng đường cách mạng, từng bước được vận dụng, kế thừa, bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn cách mạng, thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Có thể khẳng định rằng, sự bổ sung, phát triển ấy vẫn cơ bản dựa trên sự kế thừa những cốt lõi, hạt nhân, bản chất vấn đề văn hóa đã được khẳng định trong Đề cương về văn hóa Việt Nam. “Nếu coi Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 như là cương lĩnh thứ nhất của Đảng về văn hóa thì Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước như những cương lĩnh mới về văn hóa của Đảng thì không thể không nhận thấy những tiếp nối, phát triển nhiều luận điểm quan trọng của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Mặc dù đã trải qua chặng đường 80 năm, dù thực tế đã thay đổi và nội dung, tính chất, nhiệm vụ, phương thức tổ chức, xây dựng một nền văn hóa mới của văn hóa Việt Nam thời hội nhập đã khác nhưng những định hướng cơ bản về tư tưởng, nội dung và những nguyên tắc của nền văn hóa mới vẫn còn mang ý nghĩa lớn với chúng ta”1. Trong 80 năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nền văn hóa mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu không nhỏ. Văn hóa ngày càng in đậm, thấm sâu vào từng thiết chế xã hội, từng cộng đồng, gia đình, cá nhân, tạo nên một đời sống văn hóa cao đẹp, lành mạnh. Sự phát triển đó chắc chắn có phần mở hướng, tác động và đóng góp không nhỏ của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Đặc biệt ba nguyên tắc, mà sự gắn quyện, thống nhất của nó được coi như phương châm hoạt động văn hóa, dân tộc - khoa học - đại chúng đã được thực tiễn hóa thành những nội dung hoạt động văn hóa đa dạng, hình thành một mặt trận văn hóa rộng lớn và tiếp tục được mở rộng trong quá trình phát triển văn hóa phục vụ sự

_____________

1. Phạm Quang Long: Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943:           Ý nghĩa khai phóng của một cuộc cách mạng văn hóa, baovanhoa.vn, 08/02/2023.
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước hiện nay. Có thể coi Đề cương về văn hóa Việt Nam là một văn kiện lớn; hệ nguyên tắc dân tộc khoa học - đại chúng trong xây dựng, phát triển văn hóa là quan điểm văn hóa lớn của Đảng, đặt nền móng và mở đường cho những bước phát triển mới của nền văn hóa Việt Nam những năm sau này. Sự thống nhất biện chứng giữa ba nguyên tắc được đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam là phương châm định hướng cho mọi hoạt động văn hóa, là điều kiện để thực hiện thắng lợi cuộc vận động văn hóa, cuộc cách mạng văn hóa không chỉ trong giai đoạn lịch sử khi đó mà còn cả trong những bước chuyển của văn hóa, đời sống văn hóa sau này. Phương châm ấy ngày càng được phân tích, đánh giá, kế thừa, phát triển phù hợp với từng giai đoạn cách mạng mới, tạo nên những hiệu quả và thành tựu mới.
  1. Như vậy, từ hệ nguyên tắc, đồng thời cũng là phương châm dân tộc, đại chúng, khoa học trong vận động và thực hành văn hóa, qua mô hình xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc; nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc đến định hình đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam... là một quá trình kế thừa, phát triển biện chứng, khẳng định tính đúng đắn của đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng trong 80 năm qua. Trong những vấn đề này, cần nhấn mạnh đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (Nghị quyết số 03) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nội dung của hai nghị quyết này thực sự thể hiện tầm cao mới về nhận thức đối với các vấn đề văn hóa và về phương pháp lãnh đạo văn hóa trong bối cảnh mới. Ngoài việc nhận thức rộng về khái niệm văn hóa, hai Nghị quyết này đã đề ra quan điểm lớn để xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong tình hình mới; tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất, toàn dân với hai đặc trưng cơ bản: tiên tiến, và đậm đà bản sắc dân tộc. Không gì khác hơn, nền văn hóa tiên tiến phải gắn với nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc, phải có cái độc đáo, cái riêng, cái bản thể truyền thống, tâm hồn, tính cách, lối sống, phong tục... của người dân Việt Nam, những biểu hiện văn hóa có nguồn gốc lâu đời sâu xa, bền vững trong truyền thống lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc... Như vậy, có thể tìm thấy trong các đặc trưng tiên tiếnđậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa hiện nay những yếu tố dân tộc, đại chúng, khoa học đã được Đề cương về văn hóa Việt Nam thể hiện như là những nguyên tắc sống còn của sự vận động văn hóa. Có điều, những yếu tố đó đã được mở rộng hơn, nâng cao thêm, được nhìn nhận dưới những chất lượng mới phù hợp với sự phát triển của dân tộc và nhân loại trong bối cảnh mới. Và, cũng có thể thấy rằng, những nội dung được khởi thảo vắn tắt trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong đó có ba nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, đã tạo nên một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng, thúc đẩy sự vận động và phát triển của nền văn hóa, đời sống văn hóa xã hội nước ta theo hướng bền vững.
  2. Trong bối cảnh đời sống của nhân dân ta vô cùng ngột ngạt dưới ách thống trị của Nhật - Pháp; giới trí thức nước nhà lâm vào khủng hoảng và bế tắc, sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam thực sự có ý nghĩa, vai trò và giá trị lịch sử quan trọng, có sức mạnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết giới trí thức và toàn dân vào sự nghiệp văn hóa cứu quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng văn hóa. Với phương châm vận động văn hóa theo nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về thực hành cách mạng văn hóa; về mối quan hệ giữa cách mạng văn hóa và cách mạng xã hội, cách mạng chính trị; về đặc trưng của nền văn hóa cũng như đời sống văn hóa ở nước ta trong bối cảnh đó... Những quan điểm và nội dung đề cập trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự, mặc dù, trong bối cảnh hiện nay, nhiều nội hàm, nhiều vấn đề được chúng ta quan niệm và hiểu khác hơn nhiều. Chẳng hạn, phạm vi của văn hóa hiện nay được hiểu với nội hàm rộng lớn, không khuôn hẹp trong ba lĩnh vực được đề cập trong Đề cương về văn hóa Việt Nam là tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. Hay nội dung của ba nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, đã liên tục được nhận thức sâu rộng hơn, bổ sung những yếu tố mới để hình thành quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó đáng chú ý là phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đang phát triển rộng khắp, có chất lượng trên cả nước. Dù thế, một lần nữa, cần khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đặt ra rất nhiều vấn đề lớn, bao quát, mang tính chiến lược, có tác dụng tạo tiền đề và điều kiện cho những bước chuyển văn hóa những giai đoạn sau. Từ hệ nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa trong vận động và thực hành văn hóa đến những chuyển biến về chất trong nội dung đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam mỗi giai đoạn là cả một quá trình kế thừa, phát huy, bổ sung, nâng cao những quan điểm, đường lối xuyên suốt của Đảng về văn hóa văn nghệ. Trong từng giai đoạn, những hạt nhân đúng đắn, hợp lý được kế thừa và phát triển; những yếu tố, nội dung còn hạn hẹp hay không còn thích hợp được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp điều kiện mới. Tư tưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam, với những nội dung quan trọng, trong đó có hệ nguyên tắc, đồng thời là phương châm vận động cách mạng văn hóa: dân tộc - khoa học - đại chúng, đã phản ánh và đáp ứng những đòi hỏi mới của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa cách mạng trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc. Nó cũng gợi ra những vấn đề quan trọng, tạo tiền đề cho việc xây dựng, phát triển nền văn hóa trong những thời kỳ mới theo hướng bền vững. Trong đó, sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là hết sức quan trọng.
  3. Dưới tác động to lớn của cương lĩnh văn hóa Đề cương về văn hóa Việt Nam; của hệ nguyên tắc vận động cách mạng được nhấn mạnh trong nội dung Đề cương về văn hóa Việt Nam; của đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng qua từng giai đoạn, được kế thừa, phát triển từ sự khai mở của Đề cương về văn hóa Việt Nam, sự nghiệp văn hóa nước nhà đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật, tạo nên một xã hội dân trí cao với những con người có văn hóa; một đời sống văn hóa xã hội đa dạng, lành mạnh, cao đẹp, trong đó toàn dân cùng đoàn kết để thực hành văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đặt một mốc son trong việc khởi động, định hướng sự phát triển của văn hóa và đời sống văn hóa dân tộc cũng như trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiện tại và tương lai, có thể một vài nội dung được phác họa trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đã không còn phù hợp với bối cảnh mới. Song, hàng loạt những vấn đề thể hiện quan điểm của Đảng lúc đó về văn hóa, trong đó có vấn đề về hệ nguyên tắc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam với tính chất dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, vẫn có sức sống mãnh liệt. Quan điểm này đã được khẳng định, kế thừa, bổ sung, hình thành đường lối văn hóa của Đảng trong thời kỳ mới: xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Và, chính sự kế thừa và phát triển này cho phép khẳng định rằngĐề cương về văn hóa Việt Nam, cũng như không ít vấn đề, nội dung được phác thảo trong đó, đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính chất động lực và ý nghĩa thời sự trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo hướng bền vững.
 
SỰ KHAI PHÁ MỞ ĐƯỜNG
CHO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LÝ LUẬN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
GS.TS. ĐINH XUÂN DŨNG*
T
 
rước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), nhân dân ta đã phải sống hơn nửa thế kỷ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm, nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra”1. Mất độc lập, tự do là mất tất cả. Lúc đó, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ thiêng liêng, cấp bách nhất, là vấn đề sống còn của cả dân tộc. Trước sự đòi hỏi gay gắt đó của lịch sử, các phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ, dù theo khuynh hướng, lập trường nào - hệ tư tưởng phong kiến, nông dân, tiểu tư sản hay tư sản,... đều tập trung tất cả cho các cuộc vận động chính trị hay đấu tranh vũ trang. Từ năm 1930, sau khi được thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng triển khai hoạt động của mình theo hướng đó - vận động chính trị, tiến lên vận động chuẩn bị đấu tranh vũ trang, tức là “làm cách mạng chính trị” như Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã khẳng định. Song, có một điểm khác căn bản với các phong trào cách mạng và yêu nước khác, không chỉ ở mặt ý thức hệ, mà ở chỗ, ngay khi tập trung cho việc vận động chính trị và chuẩn bị đấu tranh vũ trang để giải phóng dân tộc, vào thời điểm cao trào và nóng bỏng nhất
(năm 1943), Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất tỉnh táo và bản lĩnh, dành trí

_____________

* Hội đồng Lý luận phê bình Văn học nghệ thuật Trung ương.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.401.
tuệ, tâm huyết chuẩn bị đường hướng cho việc tiến hành một sự nghiệp lớn: Đấu tranh xây dựng “một nền văn hóa mới”. Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời vào năm 1943 là sự thể hiện đầy sức thuyết phục về tầm nhìn, bản lĩnh và sự nhiệt huyết đó của những người cộng sản Việt Nam. Ở đây không phải chỉ là việc sử dụng phương thức hoạt động văn hóa để thực hiện mục tiêu vận động chính trị (như các chí sĩ yêu nước lúc đó thường làm) mà là sự chuẩn bị lý luận, cương lĩnh cho sự ra đời một nền văn hóa mới sau khi cách mạng chính trị thành công, là sự vận động văn hóa như là một mặt trận, một sức mạnh đặc biệt góp phần cho sự phát triển của cách mạng chính trị. Ba luận điểm làm rõ “thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với văn hóa” được trình bày ngắn gọn, cô đúc trong Đề cương, có giá trị khai phá mở đường, khẳng định tính nguyên tắc và trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp văn hóa:
  1. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)
ở đó người cộng sản phải hoạt động.
  1. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng
văn hóa nữa.
  1. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư
luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả1.
Phải chăng, các phong trào cách mạng và yêu nước khác, vào thời điểm đó, dù thể hiện đến tận cùng khát vọng giải phóng dân tộc, nhưng đều rơi vào thất bại, vì bế tắc về đường lối cứu nước, trong đó có nguyên nhân vì không kết hợp được sức mạnh của hai cuộc vận động lớn: vận động chính trịvận động văn hóa. Từ sự nhìn nhận thực tiễn lịch sử đó, rõ ràng là Đề cương không chỉ nói về văn hóa hoặc chỉ có giá trị đối với lĩnh vực văn hóa cụ thể, mà còn góp phần tạo nên cội nguồn, động lực cho sức mạnh tổng hợp của cách mạng để dẫn tới thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945. Nếu từ tầm nhìn đó, có thể thấy rằng, mặc dù sau 80 năm nhìn lại, trong Đề cương có một số nhận định, đánh giá cụ thể chưa chính xác, cần điều chỉnh, bổ sung, nhưng giá trị lớn của Đề cương vừa có ý nghĩa lịch sử mang tính bước ngoặt của giai

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13.
đoạn 1943-1945 đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, vừa có tầm nhìn như là sự khai phá mở đường, đặt nền móng vững chắc và đúng đắn cho toàn bộ quá trình tìm tòi, xây dựng hệ thống quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa.
Không chỉ có giá trị gắn với yêu cầu của thời kỳ 1943-1945, mà Đề cương còn hàm chứa một nội dung rất sâu sắc, đó chính là những dự báo sáng suốt về tương lai của văn hóa Việt Nam. Vào thời điểm năm 1943, khi đất nước đang đứng trước những biến cố lớn, khó lường do Chiến tranh thế giới thứ hai đang diễn ra khốc liệt, cuộc vận động cách mạng đang hết sức khẩn trương, Đề cương đã nêu lên hai “ức thuyết”: một là, “nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa Việt Nam nghèo nàn, thấp kém”1, và hai là, “văn hóa Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”2. Từ hai “ức thuyết” đó, Đề cương dự báo: “Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực”3. Đến nay, ức thuyết trên đã trở thành hiện thực trong gần 80 năm qua. Song, đặt ức thuyết đó vào thời điểm chúng ta đang “tay trắng” thì phải thấy rằng, đó là một dự báo tài tình, là kết quả của sự linh cảm, của niềm tin và đồng thời của sự phân tích khoa học thực trạng và sự vận động của lịch sử.
Dự báo thứ hai còn có ý nghĩa chiến lược sâu sắc hơn, đó là sự khẳng định một quy luật có tính phổ quát của toàn bộ sự nghiệp cách mạng: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”4. Năm 1945, chúng ta đã giành được độc lập dân tộc. Năm 1975, chúng ta đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1991, khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chúng ta đã đứng vững. Cuối thế kỷ XX, chúng ta đã thoát khỏi tình trạng một nước nghèo nàn, kém phát triển và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như vậy, có nghĩa là, về mặt chính trị và kinh tế, chúng ta đã giành được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, song trên thực tiễn, đến nay, còn rất nhiều vấn đề lớn lao và

_____________

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.19, 19-20, 20, 21.
hệ trọng trong bản thân sự phát triển của đất nước đang đặt ra gay gắt, trong đó, vấn đề văn hóa với ý nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự xây đắp và nuôi dưỡng nhân cách con người, là cuộc đấu tranh bền bỉ chống cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự tha hóa,... đã và đang nổi lên như một thách thức dai dẳng nhất, và phía trước, chưa có lời giải đáp thỏa đáng, có sức thuyết phục đối với những thách thức đó. Điều khẳng định trong Đề cương cách đây 80 năm “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” chính là việc phát hiện một quy luật sâu sắc trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Hay nói cách khác, đừng ai ảo tưởng rằng, làm xong cách mạng chính trị hay chỉ tập trung cho phát triển kinh tế đã là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Công cuộc cải tạo xã hội sau khi cách mạng chính trị thành công và trong khi đẩy mạnh xây dựng và phát triển kinh tế đòi hỏi một tư duy sâu sắc hơn nhiều, đó là, chỉ có thể hoàn thành triệt để công cuộc cải tạo đó bằng cách phải hoàn thành đồng thời cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa mà Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 gọi là “ba mặt trận”. Toàn bộ nội dung cơ bản của Đề cương về văn hóa Việt Nam đều xuất phát từ luận điểm gốc trên đây, mà triết lý của nó là phép biện chứng trong xử lý quan hệ giữa ba mặt trận đó. Lơi lỏng mặt trận nào hay chỉ nhấn mạnh mặt trận này, coi nhẹ mặt trận kia đều rơi vào tình trạng bất lợi cho sự phát triển, nếu không muốn nói là có thể dẫn tới xung đột, khủng hoảng xã hội. Có thể nhận thấy rằng, sau 80 năm Đề cương ra đời, tuy có một số nhận định cụ thể đã bộc lộ hạn chế lịch sử của nó, nhưng luận điểm về tính tất yếu tiến hành cuộc vận động văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới vẫn giữ nguyên giá trị với ý nghĩa là một quy luật, một đòi hỏi mang tính khách quan và tính thời sự của nó. Cần lưu ý rằng, không phải tất cả những vấn đề đa dạng, phong phú và phức tạp của đời sống văn hóa Việt Nam trong tiến trình vận động, biến đổi của nó đều được đề cập trong Đề cương, và nhìn từ quan điểm hôm nay, không phải tất cả những nhận định cụ thể đều chuẩn xác, song mục tiêu chủ yếu của Đề cương là khẳng định những quan điểm gốc về chính trị, đặt nền tảng tư tưởng cơ bản để chuẩn bị cho việc tiến hành một sự nghiệp khó khăn và tế nhị: cải tạo nền văn hóa cũ và xây dựng nền văn hóa mới. Vì vậy, đường lối, quan điểm văn hóa, văn nghệ của Đảng từ sau Đề cương, mặc dù đã phát triển ở trình độ mới, phong phú và hoàn thiện hơn nhiều, nhưng vẫn kiên định giữ vững luận điểm cốt lõi trên.
*
                                                                                       *         *
Nếu coi Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là sự khai phá mở đường cho quá trình xây dựng quan điểm, lý luận về văn hóa ở Việt Nam, thì trong 80 năm qua, nhiều luận điểm của Đề cương đã được điều chỉnh, bổ sung, làm phong phú hơn, trong đó, luận điểm cơ bản “văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”1 được điều chỉnh, bổ sung nhiều lần và vươn tới sự hoàn chỉnh trong những năm gần đây.
Năm 1943, nội dung này được thể hiện theo hướng diễn đạt của cặp phạm trù nội dung và hình thức. Về nội dung, yêu cầu rất mới, đó là “tân dân chủ”, tức là phải vượt qua văn hóa phong kiến, văn hóa nô dịch để trở thành nền văn hóa dân chủ mới - một trào lưu đang phát triển mạnh mẽ của văn hóa thế giới giai đoạn lịch sử đó. Đồng thời, do ảnh hưởng của quan niệm Xôviết về văn hóa đa dân tộc của Liên Xô thời kỳ đó, Đề cương coi tính dân tộc của văn hóa thuộc phạm trù hình thức: “tính chất dân tộc về hình thức”. Cách hiểu đó ít nhiều chưa thể hiện được chiều sâu của tính dân tộc của văn hóa, không chỉ là những biểu hiện hình thức mà còn thấm sâu vào toàn bộ nội dung của văn hóa. Trong một thời kỳ khá dài, khái niệm “hình thức dân tộc” còn đơn giản, phiến diện, có tác dụng chi phối sự lãnh đạo văn hóa.
Mười bảy năm sau, tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), luận điểm trên đã được điều chỉnh và phát triển thành “phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc”2 để làm rõ hơn đặc trưng tổng quát của nền văn hóa khi chúng ta xác định con đường phát triển của đất nước theo mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm “nội dung xã hội

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.25-26.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.930.
chủ nghĩa” được thay thế cho “tân dân chủ về nội dung” là sự khẳng định mục tiêu và lý tưởng mới, cao hơn giai đoạn trước của nền văn hóa khi chế độ mới đã được thiết lập. Đặc biệt, thuật ngữ “dân tộc về hình thức” đã được thay thế bằng “tính chất dân tộc”, có nghĩa là, ở đó, tính dân tộc của văn hóa đã bao hàm cả nội dung và hình thức. Đó là sự điều chỉnh quan trọng và cần thiết trong quan điểm về văn hóa.
Hai mươi bảy năm sau, năm 1987, trong Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị (khóa VI), cả hai vế trên, một lần nữa, lại được điều chỉnh cơ bản: “Xây dựng... Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”1. Cụm từ “nội dung xã hội chủ nghĩa” được thay thế bằng sự khái quát rộng hơn, chỉ mục tiêu và tính chất chung của toàn bộ nền văn hóa. Như vậy, khái niệm trước đây được sử dụng trong nhiều năm, “nội dung xã hội chủ nghĩa”, ít nhiều hạn hẹp đã được điều chỉnh. Đồng thời, nhận thức sâu hơn đặc tính, thuộc tính dân tộc của một nền văn hóa, cụm từ “tính chất dân tộc” được chuyển thành “đậm đà bản sắc dân tộc” nhằm tô đậm, khắc sâu hơn yêu cầu về tính dân tộc của văn hóa Việt Nam đương đại.
Sau Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị bốn năm, vào năm 1991, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, một lần nữa, luận điểm trên có sự đổi mới rất quan trọng. Cụm từ “văn hóa xã hội chủ nghĩa” trong Nghị quyết số 05-NQ/TW đã được thay thế bằng “văn hóa tiên tiến” và giữ lại cụm từ “đậm đà bản sắc dân tộc”. Có người cho rằng, ở đây có một bước lùi về hệ tư tưởng khi bỏ đi khái niệm “xã hội chủ nghĩa” để thay thế bằng khái niệm “tiên tiến”. Thực ra, một thời gian dài, chúng ta đã quy chiếu toàn bộ nền văn hóa theo yêu cầu “nội dung xã hội chủ nghĩa”, mà không chú ý đúng mức đến tính phong phú, đa dạng, phẩm chất nhân văn, dân chủ, tiến bộ của một nền văn hóa. Làm nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa của chúng ta là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời với nền văn hóa đó, cùng với những tác phẩm mà “nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”2, còn có những giá trị dân chủ, nhân

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.480.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55-56.
văn, tiến bộ, khoa học của văn hóa dân tộc và của văn hóa thế giới. Mặt khác, sản phẩm văn hóa là vô cùng đa dạng, tạo nên vẻ đẹp, sự giàu có về tinh thần của một dân tộc, không thể soi chiếu tất cả các sản phẩm đó theo chuẩn mực hệ ý thức, mà phải lấy thước đo là tính tiên tiến, tiến bộ của nó. Như vậy, tất cả các cụm từ “tân dân chủ”, “nội dung xã hội chủ nghĩa”, “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, “hình thức dân tộc”, “tính chất dân tộc”, sau gần 50 năm, đã được thay thế bằng luận điểm mới “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), và các nghị quyết sau đó đến gần đây nhất, luận điểm này đã được làm rõ nội hàm của nó. Có thể khẳng định rằng, quá trình tìm tòi trên gắn liền với sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa và là kết quả của sự tổng kết thực tiễn một cách khoa học, nghiêm túc, sáng tạo. Đó vừa là sự kế thừa khoa học, vừa là sự phủ định biện chứng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến các văn kiện tiếp theo. Song, rõ ràng là nền móng vững chắc, sự khai phá mở đường đã bắt đầu đúng đắn từ bản Đề cương lịch sử này. Trong vị trí lịch sử của nó, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 hoàn toàn có giá trị như là một Cương lĩnh đầu tiên, là chiến lược đầu tiên về văn hóa của chúng ta.
 
NHẬN DIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
ThS. NGUYỄN VĂN DƯƠNG)
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam1 ra đời năm 1943 (sau đây gọi tắt là Đề cương). Trong 80 năm qua, Đề cương vẫn là văn kiện lịch sử có giá trị như một Tuyên ngôn - Cương lĩnh quan trọng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí của nền văn hóa và phát triển nền Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Tiếp tục nghiên cứu các giá trị cốt lõi của Đề cương là cần thiết, tất yếu. Kết quả nghiên cứu góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 21/11/2021) về xây dựng văn hóa, con người tạo sức mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trao đổi một số nội dung sau đây.
Một là, tầm nhìn về cách đặt vấn đề của Đề cương về văn hóa Việt Nam
Những năm 40 của thế kỷ trước, khi Nhật nhảy vào Đông Dương thì cuộc cách mạng chống thực dân Pháp của người Việt Nam gắn với chống chủ nghĩa phát xít. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, với thủ đoạn thâm độc, các chính sách văn hóa của Pháp, Nhật không chỉ đã gây ảo tưởng đối với người Việt Nam về “vai trò cứu tinh” từ văn minh, văn hóa của họ, mà còn gieo rắc tâm lý tự ti về nền văn hóa dân tộc. Thực tế đó cũng đồng nghĩa với hiện tượng hoang mang trong nhận thức, tư tưởng và đặc biệt trong cả việc nhận diện kẻ thù của lực lượng cách mạng lúc bấy giờ. Trước tình hình đó, Đảng đã tổ chức Hội nghị

_____________

) Phó Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.316-321.
Thường vụ Trung ương (họp từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943). Một trong những nội dung quan trọng được xác định của Hội nghị, đó phải đưa ra được định hướng có tính cách mạng về văn hóa dân tộc. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 do đồng chí Trường Chinh soạn thảo đã được thông qua và ra đời trong bối cảnh này.
Nội dung của Đề cương được tiếp cận gồm: 1. Về lý luận, phạm vi văn hóa được quan niệm bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; 2. Mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế chính trị, vị trí của cuộc cách mạng văn hóa trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo; 3. Đảng lãnh đạo mặt trận văn hóa, phát triển nền văn hóa dân tộc là tất yếu. Các giá trị cụ thể từ cách tiếp cận trên:
  • Định hướng về lý luận của Đề cương: Văn hóa phải được nhận thức như một hệ thống: “Văn hóa phải bao hàm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Tuy còn phiến diện, nhưng định hướng này đã mở đầu cho sự phát triển hoàn chỉnh hơn trong quan niệm về các lĩnh vực văn hóa được đưa ra trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998). Đặc biệt là trong bối cảnh lúc bấy giờ, Đề cương đã xác định tư tưởng là lĩnh vực cốt lõi của văn hóa và coi chính trị, kinh tế và văn hóa là các lĩnh vực rất cơ bản của đời sống văn hóa xã hội, mà Đảng cần tập trung lãnh đạo để bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Cũng vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa là một trong bốn lĩnh vực quan trọng để phát triển đất nước. Người nói: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”1. Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác: Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, kinh tế là nền tảng vật chất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; kinh tế và văn hóa cuối cùng đều phục vụ nhiệm vụ chính trị là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, đạo đức, văn minh.
  • Nhận thức về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị phải dựa trên quan điểm mácxít. Đó là xét cho cùng, văn hóa là sự phản ánh hiện thực của xã hội, và chính chế độ kinh tế của một xã hội quyết định toàn bộ sự phát

_____________

1. Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.11.
triển văn hóa của xã hội đó. Nhận thức mối quan hệ này theo quan điểm duy vật biện chứng của Đề cương có ý nghĩa nền tảng để Đảng ta phát triển quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội...”, có vai trò định hướng, điều tiết, là động lực của sự phát triển.
  • Đề cương khẳng định Đảng lãnh đạo toàn diện cuộc cách mạng dân tộc, lãnh đạo cách mạng văn hóa là tất yếu (văn hóa là một trong ba mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa). Mặt trận có nghĩa không chỉ để tập hợp lực lượng cách mạng, mà còn là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Đảng Cộng sản phải lãnh đạo mặt trận tư tưởng - văn hóa thì mới gây được ảnh hưởng dư luận, mới tuyên truyền sâu rộng được quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng. Có thể thấy ngay từ cách đặt vấn đề, giá trị của Đề cương đã mang tầm triết luận của cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa.
Hai là, quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng văn hóa Việt Nam. Cụ thể:
  • Cách mạng văn hóa Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc cách mạng dân tộc do Đảng lãnh đạo. Văn hóa không chỉ là một trong ba mặt trận cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc mà Đảng phải nắm quyền lãnh đạo, Đề cương còn chỉ ra: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”. Cuộc cách mạng văn hóa - tư tưởng có vai trò làm thay đổi nhận thức, tư tưởng - với ý nghĩa “dọn đường” cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cách mạng văn hóa là một bộ phận khăng khít, có ý nghĩa nền tảng tư tưởng để cuộc cách chính trị có thể thành công. Tuy nhiên Đề cương cũng khẳng định rằng “Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công”, khi cách mạng chính trị thành công rồi, vẫn phải tiếp tục làm cách mạng văn hóa, vì như vậy cách mạng dân tộc mới thành công triệt để. Cách mạng văn hóa Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện để phát triển, mới “đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn”.
  • Văn hóa Việt Nam có tiền đồ như thế nào và làm thế nào để vận động phát triển? Tiền đồ của văn hóa Việt Nam trước hết phải được nhận thức xuất phát từ quan niệm về lịch sử và tính chất của nền văn hóa dân tộc. Đề cương đã chỉ ra các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam và tính chất của văn hóa Việt Nam hiện tại, đó là nền văn hóa “về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản”. Trong quan điểm này, văn hóa được nhìn nhận trong quá trình vận động, biến đổi, mang tính khách quan. Theo Đề cương, nền văn hóa Việt Nam trong bối cảnh lúc bấy giờ đang đứng trước thời cơ và thách thức mới. Một mặt, văn hóa dân tộc đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của tính chất phong kiến, nô dịch, nhưng mặt khác sự tác động của văn hóa tân dân chủ và những giá trị văn hóa bên ngoài sẽ là cơ sở để văn hóa Việt Nam phát triển mới.
Không dừng lại ở đó, Đề cương đã chỉ ra sự vận động của văn hóa Việt Nam “phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển”. Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi sẽ “cởi mở xiềng xích”, cơ sở để phát triển nền văn hóa dân tộc. Lúc đó nền văn hóa Việt Nam không thể nghèo nàn thấp kém, mà phát triển tới “trình độ dân chủ và có tính dân tộc hoàn toàn độc lập, có thể “đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”.
  • Cuộc vận động của văn hóa Việt Nam dựa trên những nguyên tắc nào? Tiếp cận theo quan điểm mácxít, Đề cương đưa ra “Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này”, đó là: dân tộc hóa đại chúng hóa - khoa học hóa. Nội dung các nguyên tắc được giải thích: “Dân tộc hóa” là trong quá trình xâydựng nền văn hóa phải “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa” để phát triển nền văn hóa Việt Nam độc lập. “Đại chúng hóa” là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đồng đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”. “Khoa học hóa” là “chống lại tất cả những cái gì là cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”.
Sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, các nguyên tắc này trong quan điểm của Đảng đã có bước phát triển mới. Năm 1948, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (do đồng chí Trường Chinh soạn thảo), một lần nữa khẳng định sự phát triển nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam, phải gồm đủ các tính chất dân tộc, khoa học đại chúng. Về nguyên tắc “dân tộc hóa”: văn hóa dân tộc được quan niệm không chỉ có một khuynh hướng. Hoặc phát triển nền văn hóa dân tộc theo quan điểm mácxit là xây dựng nền văn hóa vì dân tộc, vì nhân dân, bênh vực và đề cao quyền lợi của nhân dân, chống thực dân xâm lược và bọn Việt gian phản nước, hại nòi. Phát triển nền văn hóa dân tộc trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của dân tộc, đồng thời “sẵn sàng tiếp thu những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ của văn hóa nước ngoài..., không bài ngoại, vị chủng”. Về nguyên tắc “khoa học hóa”, văn hóa dân chủ mới Việt Nam là văn hóa tôn trọng tự do, tín ngưỡng, nhưng cũng phản đối mê tín, dị đoan, hủ tục, chống tư tưởng duy tâm, thần bí... Nguyên tắc “đại chúng hóa”, là văn hóa mới phải phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Sáng tạo giá trị của văn hóa mới phải xuất phát từ cuộc sống của quần chúng, phải nhằm giác ngộ nâng cao nhận thức của quần chúng... Quan điểm của Đảng cũng khẳng định rằng ba nguyên tắc - tính chất của xây dựng văn hóa mới Việt Nam đồng thời tồn tại, có quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau.
Ba nguyên tắc “dân tộc, khoa học, đại chúng” trong Đề cương tuy được giải thích một cách ngắn gọn, nhưng mang tính cương lĩnh, định hướng quan trọng. Định hướng đó đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa thiết thực và hành động vì mục đích yêu nước phải góp phần cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi áp bức, nô lệ.
Ba là, chỉ ra những nhiệm vụ cần làm trước mắt của cách mạng văn hóa Việt Nam.
  • Mục đích trước mắt của cách mạng văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ là gì? là đấu tranh “Chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân” và “phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương”. Vì sao, vì văn hóa Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ do chính sách văn hóa của Pháp, Nhật đưa lại. Đó là Nhật, Pháp đàn áp, mua chuộc, hăm doạ các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát xít, các nhà văn có tài; kiểm duyệt các tài liệu văn hóa cách mạng, ra tài liệu, tổ chức tuyên truyền về văn minh, văn hóa và chủ nghĩa Đại Đông Á, tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng, chủ nghĩa ái quốc mù quáng và hẹp hòi; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo đề truyền bá phản văn hóa, ngu dân... Trước tác động của thủ đoạn phát xít trong chính sách văn hóa Pháp, Nhật, văn hóa dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị “trói buộc văn hóa và giết chết văn hóa Việt Nam”. Nguy hại hơn, thủ đoạn phát xít trong chính sách văn hóa còn gây ra quan niệm về “sự cứu tinh” từ vai trò của văn minh, văn hóa thực dân, phát xít, rằng có thể đưa đến văn minh tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông Á.
Trước nguy cơ đó, nhiệm vụ cách mạng văn hóa Việt Nam trước hết là phải đấu tranh về tư tưởng, học thuyết. Đề cương xác định đây là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của cách mạng văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ. Cụ thể là đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, học thuyết một mặt nhằm “đánh tan những quan điểm sai lầm của triết học Âu, Á” đang có ảnh hưởng tiêu cực ở nước ta lúc bấy giờ; mặt khác, “làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng”. Quan điểm của Đảng thể hiện nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của văn hóa - là vấn đề xuyên suốt, nhiệm vụ trọng tâm trong suốt hơn 90 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc.
Cùng với nhiệm vụ đấu tranh về học thuyết, tư tưởng, nhiệm vụ đấu tranh trong lĩnh vực văn nghệ. Văn học, nghệ thuật trong Đề cương được nhận thức là một trong những lĩnh vực quan trọng của văn hóa. Lúc bấy giờ cuộc đấu tranh ở lĩnh vực này được tập trung vào các trường phái văn nghệ. Sau này trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, vấn đề được phân tích rõ hơn: “kiên quyết tẩy trừ những khuynh hướng sai lầm trong văn nghệ, những bệnh vốn có của văn hóa nước nhà hoặc lây truyền bởi văn hóa đồi trụy của thực dân... Ví dụ: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa trùm chăn, chủ nghĩa thoát ly, chủ nghĩa trung lập, chủ nghĩa duy mỹ...”. Trong thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (tháng 7/1948), Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Báo Cứu quốc, số 1986, ngày 5-1-1952), cho thấy văn hóa nghệ thuật có vai trò to lớn và trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đối với nhiệm vụ đấu tranh về tiếng nói, chữ viết, Đề cương nêu rõ: phải thống nhất về chữ viết trên cơ sở cải cách chữ quốc ngữ và làm giàu thêm tiếng nói trong văn hóa ngôn ngữ dân tộc. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng văn hóa Việt Nam, đặt nền móng cho nhiệm vụ “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Trong đó, phát triển vốn chữ, viết đúng phép tắc và giữ gìn bản sắc, phong cách tinh hoa của tiếng Việt, được coi là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng và bảo vệ biểu tượng của một quốc gia trong quá trình phát triển.
Bốn là, định hướng về cách thức, phương pháp vận động của văn hóa Việt Nam:
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Đề cương chỉ ra cách vận động của văn hóa Việt Nam, thứ nhất: “Lợi dụng tất cả khả năng công khai và bán công khai để: Tuyên truyền và xuất bản, tổ chức các nhà văn, tranh đấu giành quyền thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, chống nạn mù chữ...”. Trong cuộc cách mạng văn hóa - tư tưởng, tuyên truyền là một phương pháp quan trọng, hiệu quả. Quan điểm về cách thức, phương pháp vận động của văn hóa
Việt Nam có sự thống nhất. Ba nguyên tắc vận động của nền văn hóa Việt Nam (dân tộc, khoa học, đại chúng) là nền tảng, cơ sở của phương pháp vận động. Thứ hai, cách thức vận động của văn hóa Việt Nam còn phải chú ý “Phối hợp mật thiết phương pháp bí mật và công khai thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của Đảng vô sản mácxít”. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, phương pháp tuyên truyền vận động của cách mạng văn hóa Việt Nam đặt những vấn đề rất cơ bản, đó là việc xuất bản và nội dung, việc tổ chức đội ngũ văn hóa, văn nghệ, việc chống nạn mù chữ... Cách thức vận động phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
*
*       *
Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là dấu mốc quan trọng trong quan điểm của Đảng ta về vai trò của văn hóa và cuộc cách mạng văn hóa. Đề cương không chỉ góp phần thức tỉnh, làm thay đổi nhận thức cả lý luận và thực tiễn, mà còn vạch ra nhiệm vụ, cách thức của vận động văn hóa Việt Nam, tập hợp lực lượng cách mạng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những định hướng quan trọng mang tầm triết luận về lý luận và thực tiễn của nền văn hóa dân tộc có ý nghĩa là cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa, góp phần giải quyết thực tiễn Việt Nam đêm trước của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong tám mươi năm qua, sau Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã xây dựng, ban hành một số Nghị quyết có ý nghĩa là cương lĩnh văn hóa quan trọng. Quan điểm của Đảng về văn hóa, vai trò của xây dựng nền văn hóa Việt Nam đã ngày càng được bổ sung, phát triển mới cả về tư duy lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 vẫn giữ nguyên giá trị của một cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng. Những giá trị cốt lõi của Đề cương không chỉ góp phần giải quyết thực tiễn cách mạng dân tộc trong bối cảnh lịch sử, mà còn đặt nền móng cho sự phát triển nền văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc, xây dựng phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
 
TÍNH DÂN TỘC CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM
PGS.TS. ĐẶNG QUANG ĐỊNH*
V
 
ăn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần quyết định sự tồn vong của mỗi dân tộc. Xét một cách khái quát, văn hóa được hiểu là tổng thể những giá trị tinh thần và vật chất, phản ánh những đặc trưng tiêu biểu nhất, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo của dân tộc. Do vậy, việc củng cố, tăng cường, phát huy những giá trị đặc trưng của văn hóa là cơ sở cho sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi dân tộc. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,...)”1. Ý thức được tầm quan trọng của văn hóa, ngay từ năm 1943, khi nước nhà chưa giành được độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm mới về văn hóa (do đồng chí Trường Chinh khởi thảo) trong Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời là một sự kiện chính trị quan trọng, tạo nền tảng ban đầu cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa mới, được coi là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã góp phần thức tỉnh, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân

_____________

* Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.158-159.
tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xóa bỏ sự nô dịch về văn hóa của chủ nghĩa thực dân, góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.
Đề cương về văn hóa Việt Nam xác định ba tính chất cơ bản của nền văn hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Năm 1948, trong Báo cáo trình bày tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, và năm 1951, tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng đồng chí Trường Chinh tiếp tục khẳng định: “Văn hóa dân chủ mới Việt Nam phải gồm đủ ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”1; “Văn hóa dân chủ nhân dân của ta có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng”2. Trong ba tính chất nêu trên, theo chúng tôi, tính dân tộc là đặc trưng quan trọng nhất. Nó chính là hồn cốt của nền văn hóa Việt Nam.
Suốt thời kỳ chịu ách đô hộ của thực dân rồi phát xít, văn hóa Việt Nam đã bị tiêm nhiễm những yếu tố tiêu cực. Chúng ra sức truyền bá thứ văn hóa nô dịch, ngu dân, lối sống an phận và sự sùng bái văn hóa ngoại quốc vào Việt Nam. Do đó, tính dân tộc của nền văn hóa mới phải chống lại tất cả những yếu tố lai căng, mất gốc, làm sống dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khí phách anh hùng, những phẩm chất cao quý của dân tộc đã được xây đắp nên trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Văn hóa phải trực tiếp tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, gây dựng nền độc lập, tự chủ của dân tộc.
Tính chất dân tộc của nền văn hóa mới ban đầu phải chống lại “mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”3. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính dân tộc của nền văn hóa cũng được xác định là nội dung quan trọng. Người đặc biệt nhấn mạnh đến lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, yêu thương gắn bó, bất khuất, ý chí độc lập, tự cường, giàu lòng khoan dung, nhân ái của dân tộc. Trong các bài nói, bài viết và bằng những việc làm hằng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dạy

_____________

  1. Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.67.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.109.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.319.
chúng ta phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp đó của dân tộc. Những giá trị, những nét tinh hoa của dân tộc không chỉ được thể hiện ở nội dung, cốt cách mà hình thức biểu hiện cũng phải thật độc đáo, mang tính dân tộc.
Tính dân tộc của nền văn hóa được thể hiện thông qua hệ giá trị văn hóa quý báu của mỗi dân tộc. Hệ giá trị văn hóa của mỗi dân tộc là tổng thể những giá trị tinh thần và vật chất, thể hiện trí tuệ, tình cảm, lối sống, cốt cách, sức sáng tạo được hình thành, được truyền lại, tiếp nối và được phát huy qua các thế hệ, các thời kỳ lịch sử, được vật chất hóa thông qua hoạt động của con người, của cộng đồng dân tộc ấy. Đối với dân tộc Việt Nam, hệ giá trị đó là: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...”1.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, hệ giá trị văn hóa ấy, nhất là lòng yêu nước, đã phát huy mạnh mẽ lòng tự tôn, tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, tạo nên sức mạnh quật khởi để dân tộc Việt Nam chiến thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi, xây dựng và phát triển đất nước.
Yêu nước là truyền thống nổi bật trong hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy là mẫu số chung, là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc. Lòng yêu nước của người Việt Nam không chỉ là tư tưởng, tình cảm mà đã trở thành triết lý, là chủ nghĩa yêu nước, là ý chí, khí phách, quyết tâm và hành động của mỗi con người.
Nhận định về truyền thống yêu nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”2.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56.
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.38.
Lòng yêu nước của người Việt Nam được thể hiện ở lòng yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; yêu từng tấc đất, núi sông, yêu thiết tha quê hương, làng xóm, yêu con người, yêu văn hóa, phong tục tập quán, lối sống tốt đẹp trọn nghĩa vẹn tình.
... Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Nguyễn Khoa Điềm
Lịch sử dân tộc Việt Nam là thiên anh hùng ca về tinh thần quật khởi, ý chí quật cường bất khuất, xả thân trong các cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch họa, chống lại sự đô hộ, đồng hóa, âm mưu xâm lược của ngoại bang, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn thử thách, sóng gió để đi đến những thắng lợi vinh quang, cũng như tinh thần quyết tâm mạnh mẽ xây dựng đất nước hùng cường trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
... Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng Ôi! Tổ quốc! nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông!...
Lòng yêu nước ấy, tinh thần ấy không chỉ được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử, qua những chiến công vĩ đại, mà còn được thể hiện sâu sắc chính ngay trong cuộc sống thường ngày, bởi những con người bình dị nhất. Mỗi người Việt Nam luôn thể hiện tinh thần ấy, ý chí ấy trong quá trình lao động sản xuất, chiến đấu để góp phần cống hiến cho đất nước, cho Tổ quốc của mình.
Cùng với lòng yêu nước thì tinh thần đoàn kết cũng là truyền thống nổi bật của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết trở thành giá trị vững bền, là “chất keo” kết dính tự nhiên, là mạch nguồn của sức mạnh Việt Nam. Mỗi người Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại đều mang trong mình giá trị tinh thần ấy.
Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, tư tưởng thuận hòa, đoàn kết, sự hòa đồng là tư tưởng chủ đạo, chi phối. Nó mạnh hơn tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối xử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công. “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”1.
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tinh thần đoàn kết đã tạo nên một sức mạnh vô địch và bất diệt, nó nhấn chìm mọi bè lũ bán nước và cướp nước. Tinh thần đoàn kết ấy còn được thể hiện ở sự đùm bọc, sẻ chia, yêu thương, cảm thông với những người gặp khó khăn, hoạn nạn.
Những giá trị cốt lõi của tính dân tộc trong nền văn hóa đã làm nên một Việt Nam hùng cường, bất khuất với hàng ngàn năm lịch sử. Câu thơ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai đoạn lịch sử hào hùng chống quân Mông Nguyên thế kỷ XIII của dân tộc sẽ tiếp tục lan tỏa, bồi đắp khát vọng, ý chí mãnh liệt của mỗi con người Việt Nam về một đất nước hùng cường, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình và phát triển xứng tầm với quốc tế. Mênh mông một dải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh!2
Những chuẩn mực, giá trị của nền văn hóa cách mạng đã soi đường cho quốc dân đi. Năm 1943, Hồ Chí Minh đã phác thảo một nền văn hóa mới với năm điểm:
“1- Xây dựng tâm lý: lý cách, tinh thần độc lập tự cường.
  1. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
  2. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
  3. Xây dựng chính trị: dân quyền.
  4. Xây dựng kinh tế”3.
Tinh thần ấy đã trở thành dòng chủ đạo cho nền văn hóa cách mạng Việt Nam - nền văn hóa vì lợi ích của cả dân tộc, nền văn hóa đại chúng, nền văn hóa khoa học, nhân văn, nhân đạo, vì nhân dân, vì con người.
Ngày nay, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta tăng cường, củng cố tính dân tộc của nền văn hóa để không mất bản sắc,

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.177.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.261, 458.
không bị “hòa tan”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc đến “cốt cách dân tộc”. Đó là sự tổng hòa tính đặc sắc của ngôn ngữ, phong tục, tập quán, truyền thống, tâm lý, tình cảm, biểu tượng, là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nền văn hóa Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải là nền văn hóa gắn tính dân tộc với tính quốc tế, gắn lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích quốc tế, xây dựng mối quan hệ tin cậy, cởi mở, hướng tới tương lai. Ngay từ năm 1924, mặc dù nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa dân tộc trong cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa phương Đông, Hồ Chí Minh cũng không đặt các dân tộc ấy trong tính biệt lập với sự nghiệp cách mạng thế giới. Trên cơ sở sự biến đổi của chủ nghĩa thực dân và sự biến đổi nhanh chóng của tình hình cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh cũng đã có sự phân tích sâu sắc về chủ nghĩa thực dân và khả năng làm cách mạng ở các nước thuộc địa có nền kinh tế chậm phát triển. Người cho rằng, ngày nay chủ nghĩa tư bản là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc và một vòi bám vào thuộc địa. Nếu người ta muốn giết nó, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó. Do vậy, phải gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thống nhất với tinh thần xây dựng nền văn hóa cách mạng mới làm cơ sở cho việc định hướng các quan điểm chính trị tiến bộ. Quan điểm của Đảng về văn hóa ngày càng đầy đủ và sâu sắc. Đảng ta xác định, văn hóa của dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của dân tộc ta; văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển nhanh và bền vững. Mọi sự phát triển phải lấy văn hóa làm cơ sở, hướng đến sự phát triển những giá trị cao quý, giá trị bản chất của con người, để xây dựng một xã hội ngày một tiến bộ, phù hợp với bản chất nhân văn, nhân đạo của chế độ ta. Trên tinh thần đó, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”1.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.33.
Việc mở rộng quan hệ quốc tế không chỉ mở rộng sự ảnh hưởng, lan tỏa của văn hóa dân tộc Việt Nam mà còn góp phần củng cố vững chắc sự độc lập của nền văn hóa trong tính đa dạng. Việt Nam cần khơi dậy mạnh mẽ các giá trị trong tầng sâu văn hóa của mình, kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu, nâng tầm những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời qua đó lọc bỏ những yếu tố lỗi thời, những truyền thống lạc hậu, “những kẻ địch to”, cản trở sự tiến bộ, phát triển của quốc gia, dân tộc.
Có thể nói, những tư tưởng cơ bản trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu, cũng hướng tới tinh thần ấy. Đó là:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại.
Ba là, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới1.
Trong các yếu tố tạo cơ sở, nền tảng cho sự phát triển như vốn, tài nguyên, khoa học - công nghệ và văn hóa thì văn hóa - con người có vai trò đặc biệt. Về bản chất, văn hóa là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hóa là nói tới con người, do vậy, phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát huy những năng lực, bản chất của con người. Con người với trí tuệ và tiềm năng sáng tạo đặc biệt có khả năng lựa chọn và tiếp thu một cách chọn lọc những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần phục vụ cho sự phát triển. Con người với

_____________

1. Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.170-171.
khả năng của mình biết kết hợp các các nguồn lực khác để tạo ra sự thay đổi to lớn cho sự phát triển xã hội. Con người cũng là nguồn lực vô tận, càng được khai thác đúng cách lại càng trở nên giàu có. Khi trí tuệ, tinh thần của con người được phát huy, được vật chất hóa thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển vô cùng mạnh mẽ.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, con người Việt Nam có khả năng tiếp thu và vận dụng sáng tạo những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với điều kiện, nền văn hóa, con người Việt Nam. Đó là nguồn lực to lớn thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cho sự phát triển còn hạn hẹp, trong khi nguồn lực con người lại vô cùng phong phú, đất nước đang ở thời kỳ dân số vàng, nếu biết phát huy sẽ là nguồn sức mạnh to lớn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ.
Khi xác định văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển thì văn hóa được đặt trên một bình diện cao hơn, toàn diện hơn, bao quát và sâu sắc hơn ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ văn hóa chính trị đến văn hóa trong lao động sản xuất, văn hóa môi trường, v.v.. Đó cũng là điểm mới và là điểm mấu chốt trong Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội XIII về văn hóa, đổi mới và phát triển. Nói cách khác, đường lối, chiến lược của Đảng thể hiện văn hóa chính trị phát triển ở trình độ cao, mang đậm tinh thần nhân văn cách mạng, trong đó hạt nhân cốt lõi là vấn đề giải phóng, phát triển con người, đó cũng là triết lý đúng đắn về sự phát triển bền vững của dân tộc, của Đảng.
 
GIÁ TRỊ CỐT LÕI VÀ TRƯỜNG TỒN
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 CỦA ĐẢNG
PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vào tháng 2/1943. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, xác định chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại 80 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, những giá trị cơ bản và cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn luôn luôn là những định hướng có ý nghĩa chiến lược, được kế thừa, phát huy và phát triển trong hoạt động thực tiễn, là cội nguồn và động lực để khơi dậy các giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh hiện nay, nhìn lại những giá trị cơ bản và cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 sẽ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về ý nghĩa, vai trò của Đề cương, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị của Đề cương trong xây dựng văn hóa, phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

_____________

* Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
  1. Giá trị lý luận của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
1.1. Lựa chọn đúng và trúng những vấn đề cơ bản và bức thiết nhất trên lĩnh vực văn hóa để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
Trong bối cảnh đất nước đang chịu sự đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật và nhà nước phong kiến lệ thuộc, đời sống văn hóa xã hội rơi vào khủng hoảng, bế tắc, nhiễu loạn, phức tạp với nhiều trường phái, triết thuyết khác nhau, Đảng ta đã xác định vấn đề văn hóa là vấn đề hết sức quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, gắn liền với ba lĩnh vực: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đây là ba lĩnh vực cơ bản và then chốt nhất của văn hóa.
 Lĩnh vực tư tưởng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh chính trị, xác định lý tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng ta đã và đang tiến hành tuyên truyền, phổ biến, giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Tư tưởng có tác động sâu sắc và toàn diện đối với các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí... Sự thống nhất về tư tưởng sẽ tạo nên sự thống nhất về tổ chức, thống nhất về ý chí và hành động, khơi dậy khát vọng giải phóng dân tộc của các tầng lớp nhân dân. Việc lựa chọn lĩnh vực tư tưởng để lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn xây dựng văn hóa là Đảng ta đã xác định đúng và trúng vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra trong bối cảnh lịch sử - xã hội lúc đó.
Lĩnh vực thứ hai mà Đảng ta xác định là lĩnh vực học thuật (hay rộng hơn là khoa học). Trong bối cảnh đất nước bị chìm đắm trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm với các trào lưu, triết thuyết gây hoang mang, dao động trong xã hội, nhất là đối với tầng lớp trí thức đương thời, việc đấu tranh để tuyên truyền, phổ biến, khẳng định vai trò của triết học mácxít, khẳng định giá trị khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đấu tranh phê phán, phản bác lại các trào lưu tư tưởng, học thuật phản khoa học của chủ nghĩa duy tâm và tâm lý mê tín dị đoan trong xã hội, đưa các giá trị khoa học, các thành tựu khoa học chân chính vào trong đời sống xã hội để thức tỉnh nhân dân là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp thiết.
Lĩnh vực thứ ba mà Đảng ta lựa chọn là lĩnh vực nghệ thuật. Văn học, nghệ thuật đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tuyên truyền chính trị, quảng bá đường lối, chính sách của Đảng tới các tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy truyền thống đoàn kết, yêu nước, chống xâm lược, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Trong hoàn cảnh lịch sử của những năm 40 thế kỷ XX, đời sống văn học, nghệ thuật dân tộc bị bế tắc, trong bối cảnh hỗn loạn về tranh chấp ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm. Việc Đảng ta lựa chọn lĩnh vực văn học, nghệ thuật để lãnh đạo, chỉ đạo là rất cần thiết, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và tạo điều kiện để văn học, nghệ thuật và đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ phát huy vai trò tích cực trong việc định hướng, tuyên truyền, vận động cách mạng, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Như vậy, sự lựa chọn ba lĩnh vực cơ bản của văn hóa là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật để lãnh đạo và chỉ đạo là sự lựa chọn rất đúng và rất trúng những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết được đặt ra.
Các lĩnh vực này không phải là những thành tố biệt lập và có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy nhau để nâng cao trình độ văn hóa chung của xã hội, gắn kết văn hóa với mục tiêu chính trị nhằm khơi dậy và phát huy vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại giải phóng dân tộc và đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.2. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã xác định đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị. Xuất phát từ lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác, Đề cương đã khẳng định nền tảng kinh tế của một chế độ xã hội quy định sự phát triển văn hóa của chế độ xã hội đó. Từ đó, Đề cương nêu lên ba quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13.
Đề cương văn hóa đã khẳng định một tư tưởng chiến lược quan trọng: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận ở đó người cộng sản phải hoạt động để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận này. Ba mặt trận này có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cách mạng văn hóa không thể tách rời cách mạng chính trị và kinh tế. Trong thời điểm nước sôi, lửa bỏng của hoàn cảnh lịch sử lúc đó, cách mạng chính trị phải được ưu tiên giành thắng lợi trước, nhằm mục tiêu đánh đổ phát xít Nhật, thực dân Pháp và nhà nước phong kiến, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân, từ đó tạo điều kiện cho kinh tế và văn hóa phát triển. Tuy nhiên, không thể chờ cách mạng chính trị thắng lợi hoàn toàn mới phát triển văn hóa mà văn hóa phải tham gia trực tiếp vào việc cổ vũ, tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền về tay nhân dân. Văn hóa phải trở thành một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của toàn thể dân tộc. Giá trị lý luận về việc xử lý hài hòa và đúng mức về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị luôn luôn là những bài học kinh nghiệm vô giá để Đảng ta vận dụng trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm qua.
1.3. Đề cương văn hóa năm 1943 đã xác định rõ quan điểm của Đảng về cách mạng văn hóa Việt Nam:
“a) Phải làm cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội.
  1. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.
  2. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bây giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng văn hóa triệt để mai sau”1.
Cách mạng văn hóa là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng chính trị. Cách mạng chính trị thành công là tiền đề để thực hiện thành công cách mạng văn hóa. Vì vậy, cách mạng văn hóa phải gắn liền với cách mạng chính trị, đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và quyền làm chủ về tay nhân dân.

_____________

1. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.14-15.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân tộc bị nô lệ thì văn hóa cũng mất tự do. Văn hóa muốn tự do thì phải tham gia vào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Vì vậy, Đề cương đã nhấn mạnh đến tính tất yếu của cách mạng văn hóa và vai trò của cách mạng văn hóa đối với nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Đồng thời, Đề cương đã khẳng định một nguyên tắc cơ bản là cách mạng văn hóa muốn thành công thì phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo văn hóa vừa là điều kiện tiên quyết, vừa là động lực để phát huy sức mạnh con người và giá trị văn hóa Việt Nam trong cuộc kháng chiến kiến quốc. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thông qua bản Đề cương này. Đảng lãnh đạo văn hóa nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức, khơi dậy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa được khẳng định trong Đề cương này cũng đồng nghĩa với việc xác định trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với vấn đề xây dựng đường lối, phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa dân tộc trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.
Vì tính chất của nền văn hóa cách mạng, Đề cương đã xác định là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa này dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây là những mục tiêu lớn cần phấn đấu liên tục và bền bỉ để hiện thực hóa mục tiêu này trong thực tiễn cách mạng.
Giá trị lý luận nổi bật của Đề cương là Đảng ta đã nêu lên ba nguyên tắc của vận động xây dựng văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này. Đó là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Ba nguyên tắc, hay ba phương châm vận động văn hóa này, đã đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của thực tiễn làm cơ sở để Đảng lãnh đạo, tổ chức và huy động các lực lượng văn hóa, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân, khơi dậy khát vọng giải phóng dân tộc, đập tan chế độ phát xít, thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Theo đồng chí Trường Chinh: “Ba nguyên tắc trên đây là ba cái khâu của một sợi dây chuyền. Nó có tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động văn hóa mới Việt Nam mà bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà đồng thời chống lại những nguyên tắc kia. Không nhận thức rõ điều đó thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ xây dựng văn hóa mới cho dân tộc, mà có khi mắc bẫy văn hóa của đế quốc hoặc bị chúng lợi dụng”1.
Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 40 năm Đề cương văn hóa, đồng chí Trường Chinh đã giải thích cụ thể về lý do và mục đích của việc đề ra các nguyên tắc này. Vì sao phải dân tộc hóa? Theo đồng chí Trường Chinh, gần 100 năm thống trị, thực dân Pháp đã du nhập vào Việt Nam những nhân tố tiêu cực, phản động của văn hóa tư sản và đế quốc. Chúng đề cao sự giàu mạnh của thực dân, ca tụng chính sách thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, gieo rắc vào đầu óc người Việt Nam tinh thần nô lệ, lệ thuộc, sùng bái văn hóa Pháp, chạy theo cuộc sống hưởng lạc, đồi trụy, xa rời và miệt thị truyền thống văn hóa dân tộc, nảy sinh tâm lý tự ti dân tộc, giảm sút tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mục đích của nguyên tắc “dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có đầy lòng tự hào, dũng cảm đứng lên tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam”2.
Về vấn đề đại chúng hóa, đồng chí Trường Chinh nêu rõ: Hoàn cảnh nước ta lúc đó là một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, hầu hết nhân dân mù chữ. Văn học, âm nhạc, hội họa và nhiều thể loại văn hóa khác không phục vụ nhân dân lao động, mà chủ yếu phục vụ cho giai cấp thống trị. Đa số nhân dân lao động bị gạt ra khỏi đời sống văn hóa. Vì vậy, nền văn hóa mới phải là nền văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, phải làm cho mọi người dân biết đọc, biết viết, hiểu biết về văn hóa dân tộc của mình và tham gia vào

_____________

  1. Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1985, t.1, tr.30.
  2. Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1986, t.2, tr.360.
sáng tạo, chiếm lĩnh và thụ hưởng các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại tạo ra. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý về tính nhân dân của nền văn hóa cách mạng mà V.I. Lênin đã nêu ra. V.I. Lênin đã khẳng định văn hóa là thành tựu sáng tạo của nhân dân. Nhân dân có quyền được hưởng các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại tạo ra. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng văn hóa là nâng cao trình độ của nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi sự dốt nát, thất học, mê tín dị đoan, tạo điều kiện để quảng đại quần chúng nhân dân có thể tiếp nhận, thụ hưởng và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại.
Tư tưởng nhân văn và cách mạng của Đề cương văn hóa để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của lịch sử, tạo động lực để thức tỉnh dân trí và phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, khắc phục sự ngưng trệ, rối loạn và mất định hướng hiện thời.
Về nguyên tắc khoa học, theo đồng chí Trường Chinh, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ lâu ngày dưới chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến, thực dân. Những quan điểm duy tâm, thần bí, siêu hình của văn hóa phong kiến, thực dân tồn tại dai dẳng, chi phối tâm lý và hành động của nhân dân. Tính chất bảo thủ, lạc hậu in đậm trong nhiều phong tục, tập quán. Thực dân Pháp không những không xóa bỏ tàn tích văn hóa phong kiến mà còn lợi dụng nó để thực hành chính sách ngu dân. Vì vậy, “khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kiềm hãm ấy, nhằm phát triển mọi mặt trên cơ sở khoa học. Nó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động. Nó gạt ra khỏi đầu óc mọi người các loại thành kiến, hủ bại, mê tín dị đoan”1.
Như vậy, ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học chính là cội nguồn để khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn, khát vọng độc lập dân tộc của đội ngũ trí thức và quảng đại quần chúng nhân dân, đưa những tư tưởng khoa học, tiến bộ vào trong đời sống văn hóa xã hội, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.

_____________

  1. Trường Chinh: Về văn học và nghệ thuật, Sđd, t.2, tr.360.
  2. Giá trị thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Đánh giá về bản Đề cương văn hóa, GS. Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng đã nhận xét rất xác đáng là: “Đó là đỉnh cao trí tuệ đương thời, là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh tinh thần to lớn mà đất nước đang cần”1.
Có thể nói: Đề cương về văn hóa Việt Nam là sự tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng qua 12 năm (1930-1943) của Đảng, đồng thời đây là Tuyên ngôn có ý nghĩa chiến lược của Đảng về xây dựng nền văn hóa cách mạng, vừa có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam đương thời, vừa có ý nghĩa vượt thời đại, làm kim chỉ nam cho quá trình lãnh đạo văn hóa của Đảng không chỉ trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ mà cả trong thời kỳ xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đề cương văn hóa ra đời đánh dấu một bước đột phá chiến lược trong sự lãnh đạo văn hóa của Đảng, khẳng định vai trò và tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo văn hóa của Đảng, trọng tâm trước hết tập trung ở ba lĩnh vực cơ bản, có tác động sâu sắc tới toàn xã hội là lĩnh vực tư tưởng, học thuật và khoa học. Trên cơ sở đó, Đảng đã đẩy mạnh công tác tổ chức về cán bộ, từng bước có kế hoạch triển khai các hoạt động văn hóa sâu rộng trong đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân, phát huy vai trò của các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục trong việc tuyên truyền, giáo dục và vận động phong trào cách mạng. Đề cương văn hóa ra đời năm 1943 không chỉ “chim báo bão” mà là ngọn cờ để tập hợp đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ, các lực lượng, các “binh chủng” văn hóa và các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tình cảm, làm cơ sở cho sự thống nhất về tổ chức và hành động, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn thể dân tộc, giành lại chính quyền về tay nhân dân và khai sinh ra nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam đã được khơi dậy, trở thành động lực tinh thần to lớn của toàn dân tộc để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho

_____________

1. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.30.
ngụy nhào”, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa và phát triển những giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương văn hóa, trong thời kỳ đổi mới vừa qua, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa, đề cao vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng văn hóa, con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế ngày càng được nhận thức đầy đủ và cụ thể hơn. Văn hóa không chỉ có chức năng bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, mà văn hóa còn là động lực, nguồn lực để làm giàu, phát triển kinh tế - xã hội, trở thành “sức mạnh mềm” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nguyên tắc cơ bản mà Đề cương văn hóa nêu ra từ 80 năm trước đây tiếp tục được Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình khẳng định đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín khóa XI (2014) đã xác định quan điểm xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó khẳng định:
“1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”1.
Phải chăng các đặc trưng này chính là sự phát triển nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học mà Đề cương văn hóa năm 1943 đã nêu ra? Nguyên tắc đại chúng của nền văn hóa được cụ thể hóa, gắn liền với đặc trưng nhân văn và dân chủ, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển,

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.
mở rộng cơ hội bình đẳng, dân chủ cho mọi người tiếp cận các cơ hội của sự phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn chú trọng xử lý linh hoạt và hài hòa mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế và văn hóa. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã ưu tiên cho mục tiêu chính trị, tất cả vì sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Mọi hoạt động kinh tế và văn hóa đều nhằm phục vụ cho mục tiêu này. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, tạo tiền đề để củng cố hệ thống chính trị và phát triển văn hóa. Khi đất nước đã vượt qua ngưỡng thu nhập thấp để bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta nhấn mạnh đến vấn đề xử lý hài hòa, đồng bộ ba lĩnh vực này: “Phải đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội”. Khắc phục quan điểm “duy kinh tế”, chạy theo tăng trưởng mà coi nhẹ vai trò của văn hóa. Trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, cần đặt trọng tâm là xây dựng con người, xây dựng nhân cách, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tài năng và thể lực con người. Xây dựng cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Kiên quyết đấu tranh chống tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển bền vững đất nước.
Đảng ta đã xác định bốn trụ cột để bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước là kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa. Đồng thời, Đảng ta đã đúc kết phương châm hành động để phát triển đất nước bền vững hiện nay là: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ khóa XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước trong những thập niên sắp tới, phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao1. Để thực hiện những mục tiêu to lớn này, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh một trong những trọng tâm cần thực hiện thật tốt là: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc2.
Như vậy, có thể nhận thấy tinh thần của Đề cương văn hóa luôn luôn đồng hành và phát triển, là cội nguồn, là động lực để phát triển sự nghiệp văn hóa của dân tộc, phát huy vai trò to lớn, không thể thay thế của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, vấn đề tiếp tục khẳng định nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học của nền văn hóa Việt Nam vẫn là những vấn đề cốt lõi, trọng tâm để phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp cận những nguyên tắc cơ bản của Đề cương văn hóa trên tinh thần của thời kỳ đổi mới, chúng ta cần bổ sung, phát triển những nội dung mới về những nguyên tắc (hay đặc trưng) này phù hợp với thực tiễn đổi mới đất nước. Trong đó, đặc biệt tập trung vào triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Kết luận của Ban Tuyên giáo Trung ương về nghiên cứu xây dựng và thực hiện các hệ giá trị quốc gia tại Hội thảo quốc gia về hệ giá trị và Kết luận của Chủ tịch Quốc hội trong Hội thảo quốc gia về hoàn thiện thể chế, chính sách và nguồn lực cho sự nghiệp văn hóa năm 2022 vừa qua. Đây là những hoạt động thiết thực để tiếp nối tinh thần đột phá về văn hóa mà Đề cương văn hóa đã truyền lửa cho sự phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

_____________

  1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.36.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.46.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”  NĂM 1943 CỘI NGUỒN VÀ ĐỘNG LỰC NHẬN THỨC VỀ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM 80 NĂM QUA
PGS.TS. LÊ QUÝ ĐỨC)
V.I.Lênin cho rằng nhận thức là một quá trình, là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con người. Quá trình đó mãi mãi và không ngừng tiến gần đến khách thể... Quá trình đó thực hiện được nhờ hoạt động thực tiễn, đồng thời chỉ trong hoạt động thực tiễn, con người mới kiểm tra được mức độ đúng đắn của các kết quả nhận thức của mình. Các kết quả ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ cũng là một sự phản ánh gần đúng về sự vật. “Con người không thể nắm bắt được bằng phản ánh bằng miêu tả toàn bộ thế giới một cách đầy đủ, “tính chỉnh thể trực tiếp” của nó, con người chỉ có thể đi gần đến nó, bằng cách tạo ra những trìu tượng, những khái niệm, những quy luật, một bức tranh khoa học về thế giới, v.v.”.1. Điều đó hoàn toàn đúng với quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa nói chung và về văn hóa Việt Nam trong 80 năm qua, từ Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đến Diễn văn tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 24/11/2021.
Bài viết này nhằm phân tích quá trình đó, khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam là “cội nguồn và động lực phát triển” của nhận thức về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 80 năm qua.

_____________

) Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Từ điển triết học giản yếu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1982, tr.336-337.
Từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa (trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945), bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” đã chỉ ra cội nguồn nhận thức về văn hóa:
Trong Diễn văn văn nhân dịp kỷ niệm 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (ngày 27/12/1983), Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày rõ hoàn cảnh ra đời của bản Đề cương: “Nhiệm vụ cấp bách được đặt ra lúc đó là làm thế nào huy động được mọi lực lượng để cứu nước, giải phóng dân tộc. Muốn thế phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết tất cả những người ta có thể đoàn kết, tranh thủ tất cả những người ta có thể tranh thủ. Mặt trận Việt Minh đã ra đời trong hoàn cảnh đó để thực hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng. Từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, tất cả đúng dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng và của Mặt trận Việt Minh để đánh đổ Nhật, Pháp.
Trí thức Việt Nam không chịu nhục mất nước. Họ khao khát tự do. Với Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng chỉ cho họ thấy đâu là lối thoát. Muốn giải phóng trí thức, phải giải phóng toàn thể dân tộc khỏi ách phát xít Nhật, Pháp giành lại độc lập, tự do. Và giải phóng dân tộc là giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển một cách tự chủ, theo hướng tiến bộ. Với Đề cương văn hóa, Đảng vạch ra nhiệm vụ của giới trí thức nước nhà là tham gia cách mạng dân tộc dân chủ, đặc biệt là tham gia cách mạng văn hóa dân tộc dân chủ, một bộ phận cấu thành của cách mạng dân tộc dân chủ (cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế, cách mạng văn hóa) xây dựng nền văn hóa mới của nước ta”1.
Qua đó thấy rằng từ thực tiễn cách mạng chính trị giành lại độc lập của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức về “văn hóa” và “vai trò của văn hóa”, “vai trò của đội ngũ tri thức” đối với vận mệnh dân tộc to lớn như thế nào?
Từ góc độ chính trị Đảng nhận thức về văn hóa: “Phạm vi vấn đề văn hóa: Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”2, đó là những lĩnh vực của văn hóa gắn trực tiếp với chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận chủ thể sáng tạo văn hóa là đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ “trí thức Việt Nam ta không

_____________

1. 2. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.47-48, 15.
chịu nhục mất nước. Họ khao khát tự do. Với Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng chỉ cho họ đâu là lối thoát. Muốn giải phóng trí thức, phải giải phóng toàn dân tộc..”. Tức là Đảng nhận rõ vai trò của văn hóa” Văn hóa luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nhận rõ tầm quan trọng đặc biệt ấy, Đảng chủ trương đoàn kết đội ngũ những người hoạt động văn hóa và giúp đỡ họ tiến bộ, trở thành người chiến sĩ tự giác trên trận địa cách mạng”1.
Như vậy, cội nguồn của việc nhận thức về văn hóa, trong Đề cương văn hóa Việt Nam theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là từ thực tiễn của đời sống chính trị xã hội, xem “văn hóa” như là một bộ phận của đời sống xã hội, gắn trực tiếp với cuộc cách mạng chính trị. Văn hóa có vai trò quan trọng đặc biệt “thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội”. Cách nhìn đó mang tính tiến bộ và nhân văn hơn quan niệm của giai cấp phong kiến trong xã hội quân chủ ở nước ta, khi họ “đề cao” văn hóa “văn dĩ tử đạo”, “văn dĩ quán đạo”, “văn dĩ minh đạo” hay “thi ngôn chí”... Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tiến bộ và nhân văn hơn quan điểm của giai cấp tư bản, đặc biệt là các nhà cai trị thực dân của chế độ thuộc địa ở nước ta lúc đó. Ngoài mặt họ chủ trương văn hóa phi chính trị, tách rời chính trị, văn hóa độc lập với chính trị, song bên trong (thực thi chính trị) họ đã “nô dịch” văn hóa nước ta và đàn áp các nhà văn hóa (tri thức, văn nghệ sĩ) yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng cho văn hóa dân tộc; giải phóng cho các tầng lớp xã hội, trong đó có văn nghệ sĩ trí thức là một sự nghiệp mang tinh thần văn hóa, nhân văn. Song chủ trương đó không chỉ mang tính nhân văn mà còn mang tinh thần cách mạng, tiến bộ hay (nhân văn cách mạng) khi Đảng kêu gọi văn nghệ sĩ, trí thức đứng vào hàng ngũ của nhân dân (mặt trận Việt Minh) tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”. Cho nên, “Đảng chủ trương đoàn kết đội ngũ những người hoạt động văn hóa và giúp đỡ họ tiến bộ, trở thành những chiến sĩ tự giác trên mặt trận cách mạng”, những người chiến sĩ của nhân dân, của dân tộc.

_____________

1. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm, Sđd, tr.54.
Từ các luận điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam chỉ ra động lực phát triển của nhận thức về văn hóa
Cũng trong Diễn văn nhân kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (ngày 27/12/1983), đồng chí Trường Chinh cho rằng: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. Ví dụ: cách mạng tư tưởng đề ra còn sơ sài, vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa được đề cập tới. Nhưng Đề cương văn hóa đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam”1.
Tuy vậy, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đưa ra không chỉ hai mà nhiều “ức thuyết” về văn hóa nói chung, về văn hóa Việt Nam và cách mạng văn hóa ở Việt Nam nói riêng, về vai trò của văn hóa đối với “cuộc cải tạo xã hội” sau cách mạng dân tộc dân chủ. Đó chính là động lực thúc đẩy nhân thức của Đảng Cộng sản Việt Nam và của các nhà trí thức, cần phải nghiên cứu để nâng cao nhận thức về văn hóa và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội sau khi thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây và đặc biệt từ Đổi mới đến nay. Dưới đây xin dẫn lại các vấn đề mà đồng chí Trường Chinh cho rằng cần phải nghiên cứu về văn hóa và cách mạng văn hóa (cách ngày nay 80 năm) vẫn còn “những thiếu sót cần phải ra sức khắc phục, để vững bước tiến lên”: “1. Quan niệm của những người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa:
  1. Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành cách mạng xã hội.
  2. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo.
  3. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bây giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để sau này).

_____________

  1. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm, Sđd, tr.54.
  2. Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa (...)”1.
Động lực của nhận thức “nhờ hoạt động thực tiễn (thực tiễn thúc đẩy nhận thức của con người) và “chỉ trong hoạt động thực tiễn, con người mới kiểm tra được mức độ đúng đắn của các kết quả nhận thức của mình”. Đề cương văn hóa (năm 1943) là sự mở đầu cho cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta 80 năm qua, như đồng chí Trường Chinh đã nói: “Chặng đường vận động cách mạng văn hóa Việt Nam vừa qua (tức từ thực tiễn cách mạng văn hóa_N.V), nhận rõ những thành tựu to lớn đạt được trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời cũng thấy được thiếu sót cần phải ra sức khắc phục”. Điều đó có nghĩa là những ức thuyết về “cách mạng văn hóa”, về “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, về “vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng văn hóa”, về mối quan hệ giữa cách mạng chính trị với cách mạng văn hóa”, đặc biệt vai trò của cách mạng văn hóa đối việc cải tạo xã hội “phải hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” trong Đề cương văn hóa đã được thực hành và thực tiễn của đời sống văn hóa dân tộc kiểm nghiệm tính đúng đắn của nó và cả những “thiếu sót cần phải khắc phục”. Những thiếu sót cần phải khắc phục” theo chúng tôi chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhận thức của con người, nhất là những người Cộng sản - những người cách mạng, không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới (trong đó có văn hóa). Chẳng hạn, quan điểm “Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)”2Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) nêu ra, nếu so với quan điểm của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” thì thấy rằng quan điểm của Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 là “ức thuyết” đã dược thực tiễn kiểm nghiệm có những “hạn chế” cần được nhận thức lại đúng đắn hơn.

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.319, 316.
Do sự hạn hẹp của góc nhìn đối với văn hóa và hoàn cảnh khách quan, chúng ta chưa có điều kiện nhận thức đầy đủ về văn hóa, về vai trò của văn hóa và cả về nội dung rộng lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm1:
  • Về văn hóa và ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những yêu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”2.
  • Về xây dựng nền văn hóa dân tộc: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc:
  1. Xây dựng tâm lý: lý cách, tinh thần độc lập tự cường (tức là tư tưởng_N.V).
  2. Xây dựng luận lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng (tức đạo đức tốt đẹp_N.V).
  3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
  4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
  5. Xây dựng kinh tế”3
Đến Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) chúng ta mới đưa tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào Văn kiện chính thức về văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Diễn ngôn về tính chất của nền văn hóa 80 năm qua từ bản Đề cương về văn hóa Việt Nam
Về tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng vừa qua, nếu so sánh diễn ngôn của các văn kiện Đảng về văn hóa thì thấy

_____________

  1. Cũng vào năm 1943 trong cuốn sách Nhật ký trong tù (thơ) ở phần ghi chép lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có quan niệm đúng đắn và khá đầy đủ về văn hóa và xây dựng nền văn hóa dân tộc, tiếc rằng đến tháng 7/1944 Người về nước.
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.3, tr.431.
  3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.3, tr.431.
rằng tính chất của nền văn hóa Việt Nam ở các giai đoạn ấy cơ bản đều có nguồn gốc (cội nguồn) từ ba nguyên tắc (hay ba tính chất)1 về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam được đề ra từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Đó là ba nguyên tắc: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng đã được giải thích rõ trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 như sau:
“Ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa của nước Việt Nam giai đoạn này:
  1. Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn
hóa Việt Nam phát triển độc lập).
  1. Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản
lại đông đảo quần chúng hoặc xa rời quân chúng).
  1. Khoa học hóa (chống lại tất cả cái gì làm cho văn hóa trái với khoa học,
phản tiến bộ)”.
Trong diễn văn kỷ niệm 40 năm ngày ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã dành một phần nói về “Tác động và ảnh hưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong 40 năm qua”. Đồng chí đã điểm lại quá trình phát triển các luận điểm về ba tính chất của nền văn hóa Việt Nam trong Đề cương..., qua các giai đoạn lịch sử của cách mạng được ghi nhận tại các văn kiện của các kỳ Hội nghị Văn hóa toàn quốc làn thứ nhất (11/1946), Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (7/1948), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (5/1951), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (2/1957), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ ba (11/1962), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ tư (1/1968)...
Kết luận vấn đề trên đồng chí khẳng định: “Bốn mươi năm qua, bản Đề cương văn hóa đã đi vào cuộc sống, góp phần tạo ra những chuyển biến cách mạng sâu sắc trên đất nước ta. Một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, với sức sống mãnh liệt, đang củng cố những đổi mới trong tư tưởng, tình cảm, trí tuệ và đạo đức của nhân dân ta ngày nay”. Nghĩa là ba tính chất của nền văn hóa mới trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã được khẳng định trong đời sống xã hội Việt Nam. Vấn đề tính chất của nền văn hóa Việt Nam

_____________

1. Trong Đề cương gọi là ba nguyên tắc, còn trong Diễn văn kỷ niệm 40 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam thì vừa gọi là ba nguyên tắc”, vừa gọi là ba “tính chất” và có khi lại gọi là ba “khâu” đó cũng là một cách diễn ngôn.
giai đoạn mới, theo đồng chí: “những người làm công tác trên mặt trận lý luận, tư tưởng và văn hóa cần phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, thẩm suốt đường lối, chính sách của Đảng, thâm nhập thực tế và tổng kết kinh nghiệm... Nghiên cứu lại Đề cương văn hóa và theo dõi tác động tích cực của nó trong 40 năm qua, ta càng thấy rõ tính cách mạng, tính hoa học tính nhất quán của đường lối văn hóa của Đảng”.
Như vậy, với diễn ngôn về “tính nhất quán của đường lối văn hóa của Đảng” ba tính chất của nền văn hóa Việt Nam trong Đề cương năm 1943 cần được tiếp tục khẳng định, làm mới và phát triển phù hợp với yêu cầu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Điểm lại quan điểm của Đảng về tính chất của nền văn hóa Việt Nam trong các văn kiện về văn hóa và xây dựng phát triển văn hóa nước nhà chúng ta thấy rõ điều đó:
Văn kiện Hội nghị Trung ương bốn, khóa VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam: “Dân tộc, Hiện đại, Nhân văn”. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng ghi nhận các tính chất trên.
Văn kiện Hội nghị Trung ương năm, khóa VIII (năm 1998), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2001 (sửa đổi) đã khẳng định hai tính chất cơ bản này.
Văn kiện Hội nghị Trung ương chín, khóa XI (năm 2014) tức Nghị quyết Trung ương số 33, Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ trương xây dựng và phát triển “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... với các đặc trưng: Dân tộc, Nhân văn, Dân chủ và Khoa học”.
Tóm lại diễn ngôn của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính chất của nền văn hóa Việt Nam (trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ hay xã hội chủ nghĩa) đều xuất phát từ các quan điểm của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 hay, các quan điểm đó là cơ sở (cội nguồn) của sự phát triển các tính chất mà nền văn hóa Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo (dù diễn ngôn có thể ít nhiều khác nhau).
Nhận thức về vai trò “cội nguồn và động lực phát triển” của Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đối với sự nghiệp cách dân tộc dân chủ ở nước ta nói chung và với quá trình nhận thức về văn hóa, về xây dựng nền văn hóa mới nước nhà trước đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra “Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong đó chỉ rõ “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”, và chủ trương phát triển văn hóa theo ba hướng: dân tộc - khoa học - đại chúng. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945”.
Ngày nay bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, con người Việt Nam vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh nâng cao và phát triển nhận thức về văn hóa, về vai trò, tính chất của nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới theo tinh thần của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng năm 1943 đã đặt ra: “Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”! Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội”.
 
TỪ NGUYÊN TẮC
DÂN TỘC, KHOA HỌC VÀ ĐẠI CHÚNG
ĐẾN KHẨU HIỆU “VĂN HÓA HÓA KHÁNG CHIẾN, KHÁNG CHIẾN HÓA VĂN HÓA” CỦA ĐẢNG
PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÀ*
T
 
ại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930), trong Cương lĩnh chính trị, Đảng đề ra hai nhiệm vụ chiến lược là làm “Tư sản dân quyền cách mạng” (tức cách mạng giải phóng dân tộc) và “Thổ địa cách mạng” (tức cách mạng ruộng đất, đem lại quyền lợi dân chủ cho người dân)” để tiến tới xã hội cộng sản, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai nhiệm vụ này cùng tiến hành, có quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhận thấy cơ hội giành độc lập đã xuất hiện, Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, tập trung ưu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác thực hiện khẩu hiệu ruộng đất.
1. Lý do Đảng soạn thảo bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943
Thứ nhất, Đảng quan niệm văn hóa có phạm vi rất rộng, bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; mặt trận văn hóa là một trong nhiều mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự...) mà người cộng sản phải tham gia hoạt động; có hiểu biết về văn hóa thì mới lãnh đạo được phong trào văn hóa, mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả.

_____________

* Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Thứ hai, do Việt Nam đang bị thực dân Pháp, phát xít Nhật câu kết với nhau thống trị bằng các thủ đoạn như: tổ chức ra các cơ quan, tổ chức văn hóa phục vụ sự nô dịch của chúng; đàn áp các nhà văn hóa cách mạng; kiểm duyệt gắt gao các ấn phẩm văn hóa; du nhập, truyền bá văn hóa ngoại lai, thực dụng của phương Tây; áp đặt nền văn hóa, giáo dục ngu dân... Những chính sách đó đang làm cho văn hóa dân tộc có nguy cơ bị xóa bỏ, phủ nhận.
Thứ ba, Đảng nhận thức rất rõ và sâu sắc rằng Việt Nam là một quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời, mang đậm bản sắc dân tộc, sự tồn tại của dân tộc trước các cuộc xâm lược của ngoại bang đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nền văn hóa và tính cố kết, ứng xử cộng đồng, truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Đây chính là cội nguồn của tinh thần dân tộc và chiều sâu của nền văn hóa Việt Nam mà các thế hệ cha ông đã dựng xây, bồi đắp, là nguyên nhân sâu xa và cơ sở vững vàng để chiến thắng kẻ thù mà Đảng cần phải nắm lấy và phát huy trong lãnh đạo cuộc vận động giải phóng dân tộc..
2. Quan điểm, nguyên tắc và tính chất văn hóa cách mạng Việt Nam trong “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5/1941) nhấn mạnh: sau khi giành được độc lập dân tộc “Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển tồn tại... và được bảo đảm”1. Trong khi lãnh đạo toàn dân xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa đứng chân vững chắc, rộng lớn, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến, về lĩnh vực văn hóa, Đảng xác định quan điểm, văn hóa là một mặt trận quan trọng, cần phải đề ra chủ trương, đường lối rõ ràng, cụ thể để tập hợp, phát huy sức mạnh của văn hóa vào sự nghiệp cách mạng. Cách mạng văn hóa Việt Nam phải dựa vào cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện phát triển vì đó sẽ là cơ sở đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ, có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập, xây dựng nên một nền văn hóa mới. Một nội dung hoàn toàn mới trong quan điểm của Đảng là lần đầu tiên Đảng khẳng định: Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Việt Nam phải thực hiện sau khi giành được độc lập sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113.
Từ những quan điểm cơ bản đó, trong khi đang tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng xác định nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng văn hóa cách mạng theo ba nguyên tắc: dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa để làm cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa lạ, xa rời quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Để thực hiện thắng lợi ba nguyên tắc đó, cần phải tập trung chống lại những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... đồng thời chống lại văn hóa cực đoan của nhóm tờrốtkít. Tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam do Đảng lãnh đạo là một nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung, sẽ là nền văn hóa cách mạng nhất và tiến bộ nhất lúc này. Để có thể xây dựng nền văn hóa cách mạng, bản Đề cương đã nêu lên các nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít để chống lại văn hóa thực dân, phát xít, phong kiến mang tính chất nô dịch, ngu dân, lừa bịp như đấu tranh về học thuyết, tư tưởng, giành phần thắng cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đấu tranh với các trường phái văn hóa phi mácxít, bảo vệ xu hướng văn hóa hiện thực xã hội chủ nghĩa; đấu tranh về tiếng nói, chữ viết... tận dụng tất cả khả năng, phương pháp đấu tranh bí mật và công khai để tuyên truyền, xuất bản các ấn phẩm văn hóa nhằm phát huy văn hóa dân chủ mới ở Việt Nam.
3. Nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, nền độc lập của dân tộc mới giành được lại bị xâm phạm bởi cuộc tái xâm lược của thực dân Pháp. Tình thế cách mạng Việt Nam lúc này, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đang phải đương đầu và giải quyết các khó khăn to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại và sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài để bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, xác định rõ hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là kháng chiến chống xâm lược ở miền Nam và kiến quốc (xây dựng chế độ mới về mọi mặt, hoàn thiện thể chế nhà nước dân chủ nhân dân) ở miền Bắc, chuẩn bị thực lực để đối phó với nguy cơ chiến tranh lan rộng ra cả nước.
Cùng với công cuộc kiến quốc, tìm mọi cách đẩy lùi nguy cơ chiến tranh lan rộng, Đảng luôn quan tâm đến sự nghiệp văn hóa giáo dục, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước dân chủ nhân dân. Ngày 16/11/1946, Tổng Bí thư Trường Chinh viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước, chuẩn bị cho Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất sẽ tổ chức ngày 24/11/1946. Trong thư, đồng chí Trường Chinh thẳng thắn nêu lên những thiếu sót trong chương trình nghị sự của Hội nghị như: các báo cáo và thuyết trình thì cao xa, ít thiết thực; thiếu một bản thuyết trình về nhiệm vụ văn hóa trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc; thiếu một bản báo cáo về công cuộc vận động đời sống mới; không có một chương trình hành động của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn trước mắt.
Sau khi nêu rõ thực trạng của công tác chuẩn bị Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư đã báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh dàn bài của bản thuyết trình tại hội nghị, trong đó nêu lên mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc; nhấn mạnh thái độ của các nhà văn hóa Việt Nam lúc này là cần phải tích cực tham gia mặt trận dân tộc, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng đất nước. Lập trường của các nhà văn hóa Việt Nam phải là dân tộc và dân chủ, có nghĩa là yêu nước và tiến bộ. Tuy nhiên, ba nguyên tắc, đồng thời cũng là ba khẩu hiệu căn bản của văn hóa Viết Nam trong giai đoạn này vẫn là: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Đây là ba mục tiêu rộng lớn của văn hóa Việt Nam, còn vào thời điểm khi mà tình hình căng thẳng đang leo thang ở miền Bắc, chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có thể nổ ra thì tất cả các nhà văn hóa Việt Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, cần phải đứng trên lập trường chung là dân tộc và dân chủ để phụng sự Tổ quốc.
Đồng chí Trường Chinh xác định nhiệm vụ cụ thể của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh lúc đó là: 1- Động viên tinh thần đoàn kết và yêu nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp giải phóng dân tộc; 2- Phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hóa cổ truyền của dân tộc, đồng thời bài trừ những cái xấu, lạc hậu, hủ bại; 3- Ngăn ngừa sự xâm nhập và tấn công của văn hóa phản động, văn hóa thực dân, đồng thời học những cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; 4- Kiến thiết một nền văn hóa mới cho Việt Nam với các nội dung chủ yếu là giáo dục nhân dân; gây đời sống mới; phát triển tư tưởng khao học và học thuật tiến bộ; phát triển văn nghệ đại chúng.
Để thực hiện được các nhiệm vụ đó, Đảng cần phải lãnh đạo, động viên và thống nhất mọi lực lượng văn hóa Việt Nam, tập hợp thành mặt trận thống nhất văn hóa trên nền tảng dân tộc và dân chủ. Mặt trận văn hóa Việt Nam phải trở thành một bộ phận khăng khít của Mặt trận dân tộc thống nhất giành độc lập, vì văn hóa không thể biệt lập với chính trị. Đây là quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa cách mạng được Tổng Bí thư nêu lên tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24/11/1946).
Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một tháng sau, Đảng Cộng sản Đông Dương đã buộc phải phát động toàn quốc đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), nhấn mạnh: “Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta phải đứng lên”. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thể hiện nguyện vọng muốn được sống trong hòa bình vừa thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu của cả một dân tộc vì độc lập, tự do.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã sớm đề ra đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”, huy động sức mạnh của toàn dân, sức mạnh tổng hợp của tất cả các mặt đấu tranh, trong đó có văn hóa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương, đồng thời cũng là khẩu hiệu hành động: “Kháng chiến hóa văn hóa” và “Văn hóa hóa kháng chiến”. Chủ trương nêu trên nhấn mạnh văn hóa là một mặt trận quan trọng góp phần vào cuộc kháng chiến toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, tư tưởng để đánh thắng kẻ thù. Để thực hiện kháng chiến hóa văn hóa, cần phải tập trung xây dựng nền văn hóa kháng chiến, làm cho mọi người dân yêu nước, đặc biệt là những người làm công tác văn hóa cách mạng hiểu được mục tiêu, ý nghĩa của cuộc kháng chiến, thông suốt được tư tưởng, kháng chiến vừa để bảo vệ nền độc lập đồng thời bảo vệ và phát huy nền văn hóa dân tộc kể cả trong hoàn cảnh chiến tranh; để có thể huy động toàn dân tham gia kháng chiến. Để thực hiện văn hóa hóa kháng chiến, cần phải huy động và phát huy tính tích cực, lợi thế của văn hóa vào cuộc kháng chiến; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho mỗi người dân thêm hiểu biết và tự hào về tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, truyền thống lịch sử chống ngoại xâm, truyền thống văn hóa sâu sắc của dân tộc, biến văn hóa thành thứ vũ khí lợi hại về tinh thần, tư tưởng trong cuộc chiến đấu. Mỗi người làm công tác văn hóa phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, giáo dục, nghệ thuật. Những kiến thức, các tác phẩm thơ ca, nhạc, họa, văn xuôi, kịch nói... của họ đã góp phần quan trọng cổ vũ, động viên tinh thần kháng chiến, vun đắp, củng cố lòng tin cho mỗi người dân, mỗi chiến sĩ đang chiến đấu ngoài mặt trận về tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu, vào thắng lợi cuối cùng.
Chủ trương kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến là một chủ trương đúng đắn, rất đặc biệt, mang lại hiệu quả cao. Đại đa số nhân dân có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc và một bộ phận đông đảo các nhà văn hóa, giáo dục, các văn nghệ sĩ đã nghe theo tiếng gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không quản ngại gian khổ, hy sinh, hăm hở, hăng hái tham gia kháng chiến, đem hết sức lực và tài năng của mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc để bảo vệ nền độc lập, tự do, đồng thời cũng là bảo vệ, bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc - một nhân tố không thể thiếu góp phần làm nên chiến thắng.
4. Ý nghĩa lịch sử của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam với ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học được ban hành khi Đảng đang lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc với nhiều gian khổ, hy sinh tổn thất, mang rất nhiều ý nghĩa. Một là, thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng nhất định giành được thắng lợi. Nhiều người đặt câu hỏi vì sao trong khi đang tập trung lãnh đạo nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, Đảng lại đưa ra bản Đề cương văn hóa? Thực tiễn đã cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng của Đảng khi nhận thức rõ sự cần thiết phải kết hợp các lĩnh vực đấu tranh để tạo nên sức mạnh tổng hợp mới có thể giành được thắng lợi, không chỉ trong đấu tranh giành độc lập mà còn trong tiến hành kháng chiến chống xâm lược, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này. Đảng đã nhận thấy vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng và sức mạnh của văn hóa, đó là chỗ dựa về tư tưởng, tinh thần cho mỗi người dân, nhất là những người làm văn hóa, nghệ thuật, đi theo Đảng làm cách mạng. Hai là, Đảng đã đúc kết, khái quát bản sắc, truyền thống văn hóa của Việt Nam thành các nguyên tắc vừa mang tính phổ quát của nhân loại nhưng vừa thể hiện rõ nét riêng của văn hóa dân tộc. Ba là, đó là một nền văn hóa đậm đà bản sắc (dân tộc), mang tính phổ cập, phổ biến (đại chúng) và luôn tìm cách đấu tranh loại bỏ những cái cũ, cái lạc hậu, bảo thủ, phản động, luôn hướng đến cái mới, dân chủ, tiến bộ, dễ học, dễ nắm bắt và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, đó chính là một nền văn hóa có tính (khoa học) cao.
Ba nguyên tắc này, cùng với nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ trương, khẩu hiệu kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến đã được từng bước quán triệt, thực hiện trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1954), cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1975) và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới (từ 1986 đến nay), đưa đất nước tiến lên theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 KHƠI NGUỒN SÁNG TẠO CHO NỀN VĂN HÓA, VĂN NGHỆ NHÂN DÂN TRONG THỜI ĐẠI MỚI
TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH*
1. Bản thân sự ra đời và phát triển nền văn hóa, văn nghệ mới ở Việt Nam gắn liền với đặc điểm của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân và sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới. Ở đây chúng ta chứng kiến sự lớn mạnh của phong trào quần chúng nhân dân trong mọi cuộc vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản. Yêu cầu xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới phù hợp với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân là một yêu cầu thực tế bức thiết. Việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới gắn với những cuộc đấu tranh cách mạng có chiều hướng tiến bộ lịch sử đã tạo điều kiện cho nền văn hóa, văn nghệ mới phát triển hợp quy luật.
Năm 1943, trên cơ sở những tư tưởng mácxít về văn hóa, Đảng ta đã công bố văn kiện Đề cương về văn hóa Việt Nam, trình bày những luận điểm lý luận khoa học đầu tiên về văn hóa, khai mở nhận thức về văn hóa cho cán bộ cách mạng và quần chúng nhân dân, qua đó động viên đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà hoạt động văn hóa đi theo cách mạng, cổ vũ cho sự nghiệp cách mạng nước ta đi đến thắng lợi. Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố năm 1943 được coi là bản tuyên ngôn, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, có vai trò đặt nền tảng cho nhận thức và phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ của

_____________

* Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
toàn Đảng, toàn dân. Đây cũng là văn kiện có ý nghĩa định hướng thu hút đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ hoạt động văn hóa nhằm gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa, cứu quốc, nhằm chống lại ảnh hưởng văn hóa của giặc ngoại xâm cũng như sự lạc hậu, phản tiến bộ của những tàn dư văn hóa phong kiến bảo thủ,...
Quan điểm lý luận văn hóa của Đảng đã được nêu trong Đề cương về văn hóa Việt Nam: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả”1.
Các yêu cầu cơ bản trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mới tập trung vào ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa được nêu trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 thực chất là những phương diện khác nhau của cùng một quan điểm phát triển tiến bộ. Trong thời đại cách mạng dân chủ nhân dân, những nội dung tư tưởng tiến bộ và nhu cầu tinh thần lành mạnh nhất của dân tộc đều xuất phát từ cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Những xu hướng tiến bộ và cách mạng của nhân dân là đại diện cho sự tiến bộ của dân tộc. Đồng thời những gì năng động, tích cực nhất của dân tộc đều thuộc về nhân dân. Cũng như thế những tư tưởng được coi là khoa học không thể đi ngược lại với lợi ích của dân tộc và của đông đảo quần chúng lao động, những gì phù hợp với quyền lợi của nhân dân và dân tộc đều là những tư tưởng cách mạng tiến bộ.
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nhấn mạnh vai trò lãnh đạo đặc biệt quan trọng của Đảng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Chỉ có Đảng Cộng sản mới hướng cuộc vận động cách mạng văn hóa Việt Nam vào con đường đúng đắn và góp phần đắc lực vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc trên mọi phương diện. Vai trò, sứ mệnh lịch sử của văn nghệ sĩ, trí thức và các nhà hoạt động văn hóa Việt Nam là vừa chủ động xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13.
trong thời đại cách mạng dân chủ nhân dân, vừa phải tích cực tham gia đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước.
Giáo sư Hoàng Trinh nhận xét: “Đề cương văn hóa với nhiệm vụ đã được xác định với ba phương châm cơ bản, cũng chứa đựng một tiềm năng ngữ nghĩa tiên tiến xem văn hóa là vũ khí đấu tranh và xem phát triển lúc này là đấu tranh cho tiến bộ xã hội và cho sự nghiệp giải phóng dân tộc”1.
  1. Những phương châm cơ bản do Đề cương về văn hóa Việt Nam đặt nền tảng đã được cụ thể hóa trong quá trình từng bước xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nhân dân. Có thể tìm thấy hệ thống quan điểm đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng được thể hiện một cách thống nhất thông qua các văn kiện của Đảng, các ý kiến, thư từ, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo thay mặt Đảng như Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... về những vấn đề có liên quan đến văn hóa, văn nghệ phù hợp với những mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Đồng thời Người cũng xác định nhiệm vụ cụ thể cho văn hóa, nghệ thuật là “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”2. Trong thực chất việc đề ra nhiệm vụ cho văn hóa, văn nghệ trên cơ sở những mục tiêu nhiệm vụ của cách mạng đã gắn bó toàn bộ quá trình phát triển của nó với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến của dân tộc. Cũng qua đó vấn đề lập trường tư tưởng và quan niệm về nghệ thuật được đặt ra theo các tiêu chí gắn với lợi ích của nhân dân và của cách mạng.
Ở đây vấn đề phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ và con đường cách mạng dân chủ nhân dân, đấu tranh giải phóng dân tộc có một mối liên hệ khăng khít. “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”3. Và đối với văn nghệ sĩ “con đường phục vụ nhân dân chính là con đường giải phóng cho bản thân mình

_____________

  1. Hoàng Trinh: “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng và tinh thần nhân văn xã hội chủ nghĩa của văn hóa ngày nay”, Tạp chí Văn học, số 6, 1993, tr.1.
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.246.
  3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.504.
và cho nghệ thuật”1. Ngay từ đầu, đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức có tinh thần yêu nước, tiến bộ được Đảng tập hợp trong Hội Văn hóa cứu quốc một mặt đã tích cực tham gia trực tiếp vào cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của toàn dân, mặt khác đã đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng nền văn hóa, văn nghệ mới. Theo yêu cầu của cuộc kháng chiến, đội ngũ văn nghệ sĩ phải trở thành những người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa, có tài năng văn nghệ, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng và tích cực tham gia cuộc kháng chiến, đấu tranh bảo vệ sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Quá trình đi theo Đảng, hòa mình vào đời sống của nhân dân và cách mạng đã có ý nghĩa quyết định đến nhận thức tư tưởng và hành động của các văn nghệ sĩ, trí thức tiến bộ. Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta xác định quan điểm “kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến”. Tức là phải xây dựng và phát huy tính chiến đấu của nền văn hóa, văn nghệ cách mạng, đồng thời phải khẳng định giá trị văn hóa, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của toàn dân ta. Tự nguyện trở thành một bộ phận của nhân dân chiến đấu, các văn nghệ sĩ, trí thức đã trở thành những chiến sĩ văn hóa thực thụ, dùng vũ khí văn hóa, văn nghệ đấu tranh cho độc lập tự do dân tộc, cho những lý tưởng cao đẹp của nhân dân. Đó là hình mẫu văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa kiểu mới.
Bước ngoặt lịch sử vĩ đại từ Cách mạng Tháng Tám và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến trở thành một sức sống hiện thực. Trong bản chất, nền văn hóa, văn nghệ mới cũng chính là một lực lượng tinh thần được khơi dậy từ cuộc cách mạng nhân dân. Toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng đối với nền văn hóa, văn nghệ mới xét cho cùng nằm trong quy luật vận động của thời đại. Ở đó, mọi lực lượng thuộc về nhân dân đều trở thành sức mạnh lịch sử tự giác. Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng được định hướng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã khơi nguồn sáng tạo cho nền văn hóa, văn nghệ nhân dân trong thời đại mới. Đây cũng là một nội dung thẩm mỹ khiến cho chính bản thân người nghệ sĩ cũng cảm thấy hạnh phúc, tự hào: “Cảm ơn Đảng cho ta dòng sữa. Bốn nghìn năm

_____________

1. Về công tác văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.66.
chan chứa ân tình” (Tố Hữu). Hay có thể nói như lời nhà văn Xôviết vĩ đại M. Sôlôkhốp: “Chúng ta chỉ viết theo chỉ thị của trái tim chúng ta: Nhưng trái tim chúng ta thuộc về Tổ quốc, về nhân dân, về đảng của chúng ta mà chúng ta đem hết sức lực ra phục vụ”. Hiển nhiên là cái đích cuối cùng của văn hóa, của văn chương, nghệ thuật nằm trong cái đích cuối cùng của lý tưởng nhân dân: “ở đây không còn là “văn học” là “nghệ thuật” chữ nghĩa nữa, ở đây chính là trái tim, trái tim đang nhỏ máu và hát ca. Không thể ở ngoài nhân dân, không thể đứng ngoài mảnh đất này mà hiểu được điều đó, hiểu được sức mạnh tinh thần của văn học cách mạng”1.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người là những mục tiêu mang bản chất nhân văn, dân chủ của cuộc cách mạng nhân dân do giai cấp vô sản lãnh đạo. Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng được xác lập nền tảng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã có ý nghĩa tích cực thể hiện nhất quán những mục tiêu nhân văn đó: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”2. Trong thực tế, thời đại cách mạng dân chủ nhân dân và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là thời đại có ý nghĩa sáng tạo ra những giá trị mới trên cơ sở phát huy những giá trị nhân văn tốt đẹp nhất của truyền thống dân tộc, hướng tới những giá trị phổ quát của nhân loại tiến bộ. “Nền văn hóa cách mạng đã tôn trọng và bảo vệ toàn bộ di sản văn hóa truyền thống của dân tộc, tạo cho vốn quý đó có thêm một sức sống mới, vẻ đẹp mới trong thời đại cách mạng”3. Trong điều kiện đó sự phát triển của nền văn hóa, văn nghệ cách mạng vừa là đòi hỏi có tính quy luật nội tại bắt nguồn từ truyền thống, đồng thời đáp ứng nhu cầu diễn đạt những nguyện vọng bức thiết nhất của nhân dân và chuyển hóa thành sức mạnh trong cuộc đấu tranh chống lại những kẻ thù xâm lược hung hãn nhất: “Cả cha ông ta, cả bao nhiêu thế hệ, cả một dân tộc với quá khứ, với văn hóa của nó, với lịch sử vẻ vang vô cùng của nó, tất cả những truyền thống đó đều đứng lên cùng với những

_____________

  1. Giang Nam: “Văn học cách mạng miền Nam - một hiện tượng độc đáo”, Việt Nam nửa thế kỷ văn học, Nxb. Hội nhà văn, 1997, tr.86.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.21.
  3. Hà Minh Đức: Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr.139.
người bằng da bằng thịt để chống Mỹ, cứu nước”1. Yêu cầu đầu tiên đối với văn hóa, văn nghệ là hướng về đông đảo quần chúng cách mạng đồng thời phải bắt rễ sâu xa trong quần chúng. Đây thực chất là xác định những nội dung và đối tượng công chúng của văn chương, của nghệ thuật trong một nền văn hóa, văn nghệ hoàn toàn mới.
Phẩm chất tính nhân dân của nền văn hóa, văn nghệ mới được cụ thể hóa bằng việc nó trực tiếp tham gia vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Nó không chỉ đáp ứng đời sống tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân. Nó còn phải tham gia tuyên truyền, vận động chính trị, khơi sâu tình cảm yêu nước, tinh thần đoàn kết, quyết tâm đánh giặc của nhân dân. Một mặt nền văn hóa, văn nghệ mới cần phải được trang bị bằng tư tưởng nhân dân như một phẩm chất cốt lõi, mặt khác nó cũng nâng cao dần trình độ tư tưởng và nhu cầu thẩm mỹ của đông đảo quần chúng. Tư tưởng nhân dân không phải chỉ có nghĩa là những quan điểm có tính chất cách mạng và tiến bộ về vai trò và sứ mệnh của nhân dân trong lịch sử mà còn bao hàm cả ý nghĩa là những tư tưởng mang bản chất nhân dân, kết tinh từ truyền thống đấu tranh và lao động, phản ánh những nguyện vọng chân chính của nhân dân và bao giờ cũng có tính chất tiến bộ. Như vậy, tư tưởng nhân dân với tư cách là ý thức hệ có tính thời đại, ở những mức độ nhất định không phải và không trùng với trình độ tư tưởng của quần chúng nhân dân nói chung.
Chúng ta nhớ lại rằng trong bài báo Tổ chức Đảng và văn học Đảng, Lênin đã nhấn mạnh tư tưởng và cũng là yêu cầu đối với nền văn học mới của thời đại cách mạng vô sản là phải hướng về đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động. Bởi vì “họ là tinh hoa, sức mạnh, tương lai của đất nước”2. Như vậy, Lênin yêu cầu một nền văn học lấy lý tưởng phục vụ nhân dân làm mục đích, nó xa lạ với những mưu toan ích kỷ, hẹp hòi của các giai cấp thống trị, bóc lột. Hiểu được nhân dân, hiểu được khát vọng của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại và ước mơ vươn tới của nhân dân, đó là một trong những

_____________

  1. Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1973, tr.121.
  2. V.I. Lênin: Bàn về văn hóa văn học, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.79.
yêu cầu đầu tiên được đặt ra khi xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nhân dân. Chỉ khi nào xuất phát với tư cách là một thành phần thuộc về nhân dân, các nhà hoạt động văn hóa, các văn nghệ sĩ mới có đầy đủ năng lực và ý chí thực hiện điều đó.
  1. Ba phương châm lớn dân tộc, khoa học, đại chúng được nêu trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 thực chất là những phương diện khác nhau của cùng một yêu cầu phát triển, các phương diện này đều có ý nghĩa khẳng định, bổ sung, hoàn thiện lẫn nhau. Lý luận cách mạng chỉ ra rằng “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Như vậy có nghĩa là sự nghiệp văn hóa, văn nghệ cách mạng về cơ bản cũng sẽ phải là sự nghiệp của quần chúng, là sự tham gia ngày càng đông đảo của quần chúng lao động với một ý thức tự giác ngày càng cao, với một tinh thần dân chủ ngày càng rộng rãi. Thực tiễn cho thấy trên cái nền rộng rãi ấy những cá nhân xuất sắc mang ý nghĩ, tâm hồn và tài năng của nhân dân lao động đã xuất hiện và nắm quyền chủ động xây dựng nền nghệ thuật và văn học mới. Điều này cũng từng được Lênin khẳng định: “Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nghệ thuật phải bắt rễ sâu xa trong lòng đông đảo quần chúng lao động. Nó phải được quần chúng đó hiểu và yêu thích. Nó phải tập hợp được tình cảm tư tưởng, ý chí của quần chúng đó, nâng họ lên. Nó phải thức tỉnh những nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”1. Tin tưởng ở khả năng sáng tạo của quần chúng là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Nó là cơ sở để động viên khích lệ phong trào văn hóa, văn nghệ có tính quần chúng rộng rãi, phát huy năng lực nghệ thuật truyền thống của nhân dân, giải phóng những năng lực sáng tạo mới. Hơn nữa đó là một tiền đề xây dựng nền văn hóa, văn nghệ được thực hiện bởi nhân dân và trở lại phục vụ nhân dân, làm cho nhân dân “chẳng những nắm được vận mệnh của mình về vật chất mà còn nắm cả vận mệnh của mình về trí tuệ tâm hồn”2.
Nhân dân không chỉ là công chúng mà còn là đối tượng phản ánh chủ yếu của nền văn nghệ mới. Trong thời đại cách mạng dân chủ nhân dân, khi những cuộc đấu tranh quyết liệt nhất đã gắn kết mọi người lao động thành

_____________

  1. V.I. Lênin: Bàn về văn hóa văn học, Sđd, tr.464.
  2. Nâng cao chất lượng sáng tác, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1960, tr.64.
một khối thống nhất với một mục tiêu lý tưởng chung thì tiếng nói tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của mỗi người là sự phản ánh tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của cả cộng đồng. Việc giải quyết những vấn đề thiết thân của mỗi cuộc đời và số phận con người nằm trong tương quan với việc giải quyết những vấn đề của toàn thể cộng đồng. Chính ở đây những nhu cầu văn nghệ mới sẽ nảy sinh và cùng với nó là việc xuất hiện những khả năng sáng tạo hoàn toàn mới mẻ. Điều này cũng có nghĩa là quan niệm nghệ thuật mới sẽ chi phối sự phát triển văn học, nghệ thuật. Cơ sở của nó là môi trường thẩm mỹ mới gắn liền với hiện thực đời sống. Gắn bó và phản ánh hiện thực đời sống chẳng những được coi như sứ mệnh của nền văn hóa, văn nghệ nhân dân mà còn đặt nền văn hóa, văn nghệ ấy vào môi trường năng động đầy sức sáng tạo. Đây là một trong những vấn đề trung tâm của ý thức nghệ thuật mới, “Xưa thơ chỉ hay than mà ít hỏi. Đảng dạy ta. Thơ phải trả lời” (Chế Lan Viên). Đó là một yêu cầu được xác thực trong đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng: “Nền văn nghệ ta là nền văn nghệ của nhân dân lao động. Văn nghệ sĩ chúng ta phải là người nói lên cuộc đời và tâm trạng của công nông, trả lời được những vấn đề của cuộc sống cách mạng đặt ra”1. Những vấn đề cấp thiết mà cuộc sống đặt ra cho văn chương, cho nghệ thuật trong mỗi thời kỳ lịch sử xét cho cùng không nằm ngoài quyền lợi cao nhất của dân tộc, của nhân dân.
Những nguyên tắc cơ bản do Đề cương về văn hóa Việt Nam đặt nền móng từ năm 1943 đã liên tục được kế thừa, mở rộng làm sâu sắc thêm trong các giai đoạn khác nhau của quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) Đảng ta tiếp tục gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội            (bổ sung, phát triển năm
2011) Đảng ta nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

_____________

1. Tố Hữu: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1973, tr.331.
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ;...”, đồng thời khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn hóa, văn nghệ nhân dân đã có những khám phá mới về Tổ quốc, về dân tộc và thời đại. Hiện thực cuộc sống cách mạng trải qua các giai đoạn cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là một môi trường thẩm mỹ có chiều sâu lịch sử. Nó khơi dậy và huy động những truyền thống cao đẹp nhất của tư tưởng nhân dân trong sự vận động của xã hội và con người hiện đại. Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng chỉ rõ mối quan hệ giữa sáng tạo văn nghệ và hiện thực đời sống: “Nói cho cùng thì sự nghiệp mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đang làm và sẽ làm, là cống hiến rất to lớn, rất vĩ đại, rất cơ bản vào sự nghiệp văn học, nghệ thuật”1. Nội dung chủ yếu và đề tài trung tâm của nền văn hóa, văn nghệ mới là sự nghiệp đấu tranh và xây dựng của nhân dân. Điều này xuất phát từ quan điểm coi nhân dân là những người sáng tạo chân chính của lịch sử, đặc biệt ở vào thời đại mà nhân dân là những người làm chủ tự giác. Việc bám sát phản ánh hiện thực đời sống không mâu thuẫn với yêu cầu tiếp nối những mạch nguồn truyền thống dân tộc. Hơn nữa còn có thể nhìn thấy sức sống bền vững của truyền thống ấy trong thời đại mới. Ở đây đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng cũng xác định rõ là phải “làm cho văn nghệ mới của ta không cắt đứt với truyền thống dân tộc, mà trái lại tiếp tục và phát triển những truyền thống ấy trong những điều kiện mới của nước nhà”2. Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng được xác lập nền tảng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam chẳng những đã có ý nghĩa quyết định xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nhân dân theo hướng cách mạng, hiện đại mà còn mở ra những khả năng phát huy một cách tích cực di sản tinh thần truyền thống của dân tộc. Thực ra đó cũng là hai phương diện của yêu cầu phát triển đối với nền văn hóa, văn nghệ nhân dân. Việc đánh giá đúng vai trò của nhân dân trong mọi tiến trình lịch sử về căn bản đã làm

_____________

  1. Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, Sđd, tr.123.
  2. Về công tác văn nghệ, Sđd, tr.90.
sống dậy những giá trị do nhân dân sáng tạo trong quá khứ. Đây là biểu hiện cao của tinh thần dân chủ, tiến bộ và cách mạng, đồng thời cũng là bài học sâu sắc có giá trị thực tiễn, lâu dài đối với sự phát triển của nền văn hóa, văn nghệ nói chung.
4. Cách đây 80 năm, những nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng đã nhận ra và ý thức sâu sắc yêu cầu cấp bách về xây dựng một nền văn hóa dân tộc khoa học - đại chúng. Đây là yêu cầu được đặt ra từ thực tiễn cách mạng, không chỉ để trực tiếp phục vụ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do mà còn khẳng định dân tộc ta cần phải hướng tới những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại như tất cả các dân tộc khác trên thế giới. Từ rất sớm những nhà lãnh đạo của Đảng ta đã nhận thấy rằng nhân dân ta cần phải giành được, phải xây dựng cho bằng được nền văn hóa, văn nghệ dân chủ mới theo những tiêu chí thời đại cho dù cả dân tộc sẽ phải trải qua những chặng đường chiến đấu gian khổ, hy sinh lâu dài từ một xuất phát điểm rất thấp.
Ngày hôm nay, đất nước ta đã giành được độc lập, thống nhất, non sông liền một dải, nhân dân ta có được cuộc sống tự do và hoàn toàn làm chủ công cuộc xây dựng đất nước. Những định hướng nền tảng do Đề cương về văn hóa Việt Nam được khai mở từ cách đây 80 năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, không phải không có lý khi có ý kiến cho rằng, điều đó cũng có nghĩa là dù trải qua những chặng đường gian khổ, cả đất nước đã phấn đấu hy sinh không ngừng và đạt được rất nhiều kỳ tích trong lịch sử hiện đại, nhưng chúng ta vẫn cảm nhận rất rõ rằng con đường do Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đặt nền móng trên những mức độ, phương diện nhất định so với ước vọng chung của cả dân tộc vẫn chưa thật sự hoàn thành về đích. Một khẩu hiệu sẽ không còn cần thiết khi sứ mệnh của nó đã hoàn thành, giống như không ai giương cao khẩu hiệu đánh đuổi giặc ngoại xâm khi sự nghiệp giải phóng dân tộc đã hoàn thành. Trong khi đó, yêu cầu xây dựng một nền văn hóa dân tộc - khoa học - đại chúng dường như đòi hỏi chúng ta hôm nay không những vẫn phải tiếp tục mà thậm chí có khi còn bức thiết hơn khi đứng trước rất nhiều câu hỏi: Ngày hôm nay chúng ta đã đạt đến trạng thái văn hóa dân tộc như thế nào? Nền văn hóa Việt Nam ngày nay đã hấp thụ và bao hàm những giá trị khoa học thời đại ra sao? Tính chất đại chúng của nền văn hóa Việt Nam như hôm nay có phải thật sự đã là điều chúng ta mong muốn?... Như là một sứ mệnh, một yêu cầu phát triển tất yếu của dân tộc, chúng ta cần phải phấn đấu để không chỉ cho một hành trình về đích mà còn phải bắt đầu nghĩ đến những chân trời rộng lớn hơn.
Thời đại thông tin bùng nổ, công nghệ 4.0 phát triển, máy móc có thể giúp cho con người làm được những khối lượng công việc khổng lồ nhưng vẫn không thể thay thế con người trong tư duy sáng tạo, làm chủ cuộc sống, kiếm tìm và thụ hưởng hạnh phúc. Rồi sẽ có rất nhiều việc mà máy móc, trí tuệ nhân tạo có thể thay thế cho con người, trong đó có cả việc minh họa các khẩu hiệu. Việc của con người là cần phải nghĩ xem đến lúc nào thì chúng ta sẽ kết thúc những khẩu hiệu đang có, nghĩa là phải hoàn thành căn bản quá trình vận động xã hội theo những giá trị nền tảng hiện thời để bước sang tư duy về một nền tảng mới hơn. Lúc đó chúng ta lại sẽ cần đến những khẩu hiệu mới, cao hơn, giúp nâng cấp trạng thái đời sống và nâng cao phẩm chất con người trong một thế giới hoàn thiện hơn, tinh hoa hơn.
 
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
PGS.TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU*
1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, được Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương thông qua năm 1943. Bản Đề cương được ra đời trong một bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt.
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), những cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra làm gia tăng các mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản. Chủ nghĩa phát xít hình thành và phát triển. Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra ở châu Âu và lan rộng ra nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Lợi dụng sự thất thế của nhiều đế quốc có thuộc địa ở châu Á như Anh, Pháp, Hà Lan, phát xít Nhật nhanh chóng cướp lấy các thuộc địa, xâm chiếm nhiều nước trong khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam. Thực dân Pháp đầu hàng và ký với phát xít Nhật hiệp ước, mà theo đó nước Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật.
Dưới sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nền kinh tế đất nước suy sụp, đời sống của nhân dân lao động lầm than, mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội gia tăng, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức, tư sản dân tộc với thực dân Pháp và phát xít Nhật trở nên gay gắt. Thực dân Pháp và phát xít Nhật đều thực thi chính sách hòng nô dịch dân tộc Việt Nam về phương diện văn hóa. Nếu như

_____________

* Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
thực dân Pháp ra sức ru ngủ dân ta bằng những khẩu hiệu, những phong trào như “Pháp - Việt đề huề”, “Pháp - Việt phục hưng”, vừa phục hồi những quan điểm đạo đức cổ hủ, lạc hậu, vừa reo rắc lối sống văn hóa đồi bại, vừa tấn công vào chủ nghĩa Mác chân chính... thì phát xít Nhật lại ra sức tuyên truyền về chủ nghĩa Đại Đông Á, triển khai chương trình văn hóa Nhật Việt, tuyên truyền cho tính ưu việt của văn hóa Phù Tang. Bối cảnh quốc tế và trong nước diễn biến phức tạp cộng với sự hạn chế của thế giới quan, nhiều trí thức, văn nghệ sĩ lúc bấy giờ rơi vào tình trạng hoang mang, do dự, thậm chí là bế tắc.
Trong hoàn cảnh ấy, độc lập dân tộc và tự do dân tộc trở thành khát vọng cháy bỏng của mỗi người Việt Nam chân chính. Để tập hợp lực lượng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng cần phải tìm mọi cách để thức tỉnh quần chúng nhân dân, các giai tầng trong xã hội, hướng họ vào con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ra đời trước những yêu cầu cấp thiết đó.
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 gồm 5 phần: Phần I: Cách đặt vấn đề; Phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; Phần III: Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phátxít Nhật - Pháp; Phần IV: Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam và Phần V: Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam.
Đề cương được trình bày một cách ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn bảo đảm được tính hệ thống, tính toàn diện; đề cập cả những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng tư tưởng và văn hóa Việt Nam, nổi bật là những nội dung sau:
Một là, Đề cương xác định phạm vi của lĩnh vực văn hóa, “bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Mặc dù ba lĩnh vực này chưa phải là toàn bộ các yếu tố cấu thành nền văn hóa dân tộc, nhưng đây đều là những lĩnh vực trọng yếu của văn hóa, nơi đang diễn cuộc đấu tranh gay gắt giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa nhân văn và suy đồi, giữa giá trị và phản giá trị,... Đây cũng là những lĩnh vực hoạt động của giới trí thức, văn nghệ sĩ - một lực lượng xã hội quan trọng. Đề cương khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đề cương nêu rõ thái độ của người cộng sản trên lĩnh vực văn hóa: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Hai là, Đề cương đã khái quát ngắn gọn về tính chất của văn hóa Việt Nam theo diễn trình lịch sử. Đề cương phân tích những nguy cơ mà văn hóa Việt Nam đang phải đối mặt dưới tác động của các chính sách văn hóa phản động của phát xít Pháp - Nhật. Từ tiền đề của quá khứ và hiện tại, Đề cương đã dự báo hai kịch bản có thể xảy ra với văn hóa Việt Nam, nếu văn hóa phát xít thắng thì văn hóa Việt Nam sẽ trở nên nghèo nàn; ngược lại, nếu cách mạng dân chủ thắng lợi thì văn hóa được giải phóng, văn hóa Việt Nam sẽ phát triển, hội nhập với văn hóa dân chủ trên thế giới.
Ba là, Đề cương khẳng định quan điểm của Đảng về cách mạng văn hóa.
Để tiền đồ nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ thành hiện thực, phải tiến hành cách mạng văn hóa; chỉ khi nào cách mạng văn hóa hoàn thành thì mới cải tạo được xã hội; “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”2. Đề cương khẳng định chủ thể lãnh đạo cách mạng văn hóa đi đến thành công là Đảng Cộng sản. Mọi hoạt động văn hóa tiến bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mục tiêu của cách mạng văn hóa là xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Điểm nhấn hết sức quan trọng trong Đề cương chính là ba nguyên tắc vận động của nền văn hóa mới, đó là: “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”. Trong đó, “dân tộc hóa” là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”3. “Đại chúng hóa” là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”4. “Khoa học hóa” là “chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”5. Đề cương khẳng định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”6.

_____________

1, 2, 3, 4, 5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 316, 318, 319, 319, 319, 319.
Ba nguyên tắc này là sự trả lời đúng đắn cho những câu hỏi lớn mà thời đại đã đặt ra đối với sự phát triển nền văn hóa dân tộc. Giữa các nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, góp phần khắc phục được những nhược điểm, hạn chế của nền văn hóa dân tộc. Ba nguyên tắc này cũng chính là những yêu cầu khách quan của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Việc quán triệt ba nguyên tắc này trong thực tiễn cách mạng văn hóa đã góp phần định hướng, tập hợp, dẫn dắt đội ngũ trí thức tham gia cách mạng, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, tạo cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng chiến - kiến quốc trong những năm tiếp theo1.
Bốn là, Đề cương nêu rõ mục đích, nhiệm vụ, phương thức tiến hành xây dựng nền văn hóa mới. Để có thể xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới, huy động sức mạnh văn hóa nhằm hiện thực hóa khát vọng “độc lập, tự do, hạnh phúc”, các nhà văn hóa mácxít phải không ngừng tranh đấu trên mặt trận tư tưởng, nghệ thuật, tiếng nói, chữ viết: “thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói”, “cải cách chữ quốc ngữ”,... làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng thế2, bảo vệ và làm giàu ngôn ngữ dân tộc.
Về phương thức vận động của nền văn hóa mới, Đề cương chỉ rõ cần kết hợp một cách linh hoạt giữa hình thức hoạt động công khai, bán công khai và bí mật. Một số hoạt động cần phải được triển khai đó là tuyên truyền và xuất bản, tổ chức đấu tranh giành quyền lợi cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, chống nạn mù chữ...
Có thể khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là văn kiện có tính mở đường, đặt nền móng cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam. Nhờ có hệ thống lý luận dẫn đường mà cách mạng văn hóa Việt Nam đã  thu được những thắng lợi quan trọng, hình thành một nền văn hóa của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, văn hóa phát huy được sức mạnh của mình, “soi đường cho quốc dân đi”.

_____________

  1. Xem Phong Lê: “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 - bài học 70 năm”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10-2013, tr.31-36.
  2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
2. Giá trị lý luận và thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 trong xây dựng nền văn hóa dân tộc
Thứ nhất, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ra đời trước hết để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của hoàn cảnh lịch sử.
Yêu cầu cấp thiết của lịch sử lúc bấy giờ là làm thế nào để huy động được mọi lực lượng trong xã hội tham gia cứu nước, giải phóng dân tộc, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và kể cả tiểu địa chủ....; cần tập hợp họ dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng, của Mặt trận Việt Minh để đánh đổ Nhật, Pháp. Trong bối cảnh xã hội đầy những rối ren, nhiễu loạn do các chính sách nô dịch văn hóa của thực dân Pháp, phát xít Nhật gây ra; trong nỗi do dự, hoang mang vì mất phương hướng của giới trí thức, của tầng lớp thanh niên..., Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, với tính chất khoa học và tiến bộ, dân tộc và nhân văn,... đã trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén. Đề cương là tiếng nói đanh thép, vạch trần và kiên quyết chống lại chính sách văn hóa phản động của thực dân, phát xít. Với các giai tầng trong xã hội, đặc biệt là đội ngũ trí thức, Đề cương đã trở thành ngọn hải đăng dẫn lối cho nhiều người đang loay hoay tìm đường. Với cách mạng Việt Nam, Đề cương đã góp phần cô lập kẻ thù, tập hợp lực lượng yêu nước và tiến bộ, đoàn kết để cứu nước, cứu nòi. Đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Đề cương văn hóa thể hiện tinh thần cách mạng triệt để của Đảng Cộng sản Đông Dương và của giai cấp công nhân Việt Nam. Đề cương phục vụ đắc lực cho chính sách mặt trận dân tộc thống nhất, chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập trung lực lượng yêu nước và tiến bộ, cô lập kẻ thù để đánh đổ chúng, nhằm đạt mục đích của cách mạng”1.
Thứ hai, đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa dân tộc, Đề cương vừa có ý nghĩa  thời sự, vừa có ý nghĩa thời đại.
Đề cương đã “bắt mạch” đúng, chỉ ra một cách ngắn gọn nhưng xác đáng những “căn bệnh” của văn hóa dân tộc lúc bấy giờ. Đó là tư tưởng sùng ngoại, đầu óc tự ti dân tộc dẫn đến thái độ miệt thị văn hóa dân tộc; đó là những phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghĩ bảo thủ, lạc hậu, trì trệ; đó là đời sống văn hóa nghèo nàn của quần chúng nhân dân lao động... Từ thực tế ấy,

_____________

1. Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.19.
Đề cương đã xác định mục tiêu phát triển của văn hóa Việt Nam là phải tiến hành cách mạng văn hóa để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Và “dân tộc hóa”, “khoa học hóa”, “đại chúng hóa” là ba nguyên tắc lớn của cách mạng văn hóa. Cách mạng văn hóa phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng. Điều này đã thức tỉnh đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đương thời. Để thoát khỏi thân phận tù túng của một người dân mất nước, để giải phóng tiềm năng sáng tạo của mỗi nghệ sĩ chân chính không có cách nào khác là phải tự nguyện đứng trong đội ngũ của những người cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ba nguyên tắc này của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được quán triệt trong thực tiễn xây dựng nền văn hóa mới và còn nguyên giá trị đến ngày nay. “Điều quan trọng của Đề cương văn hóa là đã nêu khá sớm phương hướng chung của cách mạng văn hóa Việt Nam, vị trí của văn hóa trong cách mạng Việt Nam nói chung. Đề cương còn đề ra cho giới trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam ngoài nhiệm vụ chung với toàn dân là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, còn có sứ mệnh thiêng liêng là giải phóng văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam”1.
Thứ ba, Đề cương là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, khởi nguồn cho hệ thống quan điểm lý luận của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, về sự tất yếu phải tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, về mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới.
Về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước, Đề cương đã khẳng định mối quan hệ mật thiết của văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội là kinh tế và chính trị. “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”2. Với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, văn hóa gắn bó và chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, văn hóa có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”3. Để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, phải chú ý đến mối quan hệ giữa cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa.

_____________

1. Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.19.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.316, 316.
Từ rất sớm, Đề cương đã khẳng định được mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị, giữa cách mạng văn hóa với cách mạng kinh tế, cách mạng chính trị, giữa cách mạng văn hóa với cách mạng dân tộc, phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội.
Một đóng góp quan trọng về phương diện lý luận của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là đã chỉ ra được ba nguyên tắc vận động của nền văn hóa mới: “dân tộc hóa”, “khoa học hóa” và “đại chúng hóa”. Ba nguyên tắc này không chỉ phản ảnh những tính chất của một nền văn hóa mới (tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng) mà còn hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây là cuộc cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền làm chủ cho nhân dân lao động. Ba nguyên tắc này đã được kế thừa, phát triển trong hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa trong Đại hội II, Đại hội III và những giai đoạn tiếp theo. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề phức tạp do quá trình cách mạng đặt ra, nhất là ở mỗi bước ngoặt lịch sử.
Tám thập kỷ đã trôi qua kể từ khi Đề cương về văn hóa Việt Nam được khởi thảo và thông qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền văn hóa dân tộc đã có những bước chuyển biến quan trọng. Bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ và lan tỏa, đời sống văn hóa của nhân dân được nâng cao, các hình thức sinh hoạt văn hóa, các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, giao lưu văn hóa quốc tế được mở rộng... Sự phát triển của nền văn hóa dân tộc đã khẳng định tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực tiễn cao trong đường lối lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Tầm nhìn, tính đúng đắn của quan điểm xây dựng nền văn hóa dân chủ mới, tiến tới là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam không chỉ phát huy được sức mạnh văn hóa, con người Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, dựng xây đất nước mà còn khởi nguồn cho việc hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống quan điểm lý luận của Đảng về xây dựng nền văn hóa
Việt Nam trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
 
NHỮNG GIÁ TRỊ NỔI BẬT

CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA,

ĐỊNH HƯỚNG VÀ SOI ĐƯỜNG CHO NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
PGS.TS. NGUYỄN CHÍ HIẾU)
T
 
rong bối cảnh thực dân, phát xít lợi dụng mọi chiêu bài, thủ đoạn thâm độc để ru ngủ người dân An Nam bằng rượu cồn và thuốc phiện; ra sức thực hiện chính sách ngu dân, “nhồi sọ”, truyền bá tư tưởng phản động, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan về tiền đồ của đất nước, tương lai của dân tộc; cổ vũ chủ nghĩa “Đại Đông Á” lừa bịp; mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa, một số văn sĩ, trí thức đã “bẻ cong ngòi bút” hoặc tự thu mình, tâm lý đầy hoang mang, dao động. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2/1943) đã xác định phải kịp thời có đường lối lãnh đạo xây dựng nền tảng văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh bức thiết ấy, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời là một sự kiện chính trị quan trọng. Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam có ý nghĩa to lớn, là ngọn đuốc soi đường và định hướng về tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nền tảng ban đầu cho việc xây dựng một nền văn hóa mới. Đề cương được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc và giá trị to lớn về nhiều mặt đối với việc định hình, định hướng tư duy lý luận của Đảng về

_____________

) Tạp chí Cộng sản.
văn hóa nói riêng và đối với tiến trình cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm qua nói chung.
Những giá trị nổi bật của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Cần phải đặt bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 trong bối cảnh lịch sử - cụ thể đất nước ta lúc bấy giờ, mới thấy hết tính chất soi đường, định hướng cho sự phát triển nền văn hóa mới. Cho dù chỉ mới là những phác thảo ban đầu, đúng như tên gọi, có tính chất là đề cương, nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tuy nhiên, trải qua 80 năm, kể từ khi bản Đề cương này ra đời, nhìn lại toàn bộ tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam, chúng ta thấy, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn có những giá trị mang tính nền tảng, định hướng, soi đường quan trọng sau đây:
Thứ nhất, đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, Đề cương luận giải rõ “mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc”1. Nhận định này là rất đúng đắn và mang tính nguyên tắc, định hướng cho toàn bộ sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam về sau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt của đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Không như các quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên nhân thuộc về ý thức, tư tưởng hay thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C. Mác đã khẳng định: “không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.316.
rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất...”1.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định đó được thể hiện:
  • Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng, nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng, nó sẽ quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quy định.
  • Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. C. Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”2.
  • Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng không chỉ biểu hiện trong giai đoạn chuyển đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khi có sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng thì cũng sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng.
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, thụ động, rập khuôn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một cách mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Chính nhờ thấm nhuần những quan điểm lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng mà Đề cương mới xác định được đúng mục tiêu, phương hướng phát triển cho nền văn hóa Việt Nam từ đó trở về sau.
Thứ hai, Đề cương xác định rõ, văn hóa là một mặt trận và Đảng phải là người lãnh đạo phong trào văn hóa thì mới hoàn thành được sự nghiệp xây

_____________

  1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.14.
  2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.
dựng nền văn hóa mới. Quan điểm, tinh thần này của Đề cương đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, mang tính định hướng sâu sắc. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cần quán triệt văn hóa là một mặt trận và phát huy tính chiến đấu của những chiến sĩ văn hóa, những người làm công tác văn hóa, nghệ thuật trong bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa đăng trên báo Cứu quốc, số ra ngày 5/1/1952, Người viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”1. Theo Bác, đã là chiến sĩ thì phải biết “xung phong”, dám “xung phong” - đó là sứ mệnh, là trách nhiệm không thể thoái thác của những người làm văn hóa, nghệ thuật. Đồng thời, thấm nhuần tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người lưu ý: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”2. Đó chính là ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hóa và chiến sĩ văn hóa. Nghĩa là: “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”3. Và để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật còn phải có “lập trường vững, tư tưởng đúng”; nói tóm lại là, phải luôn đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thứ ba, Đề cương đã sớm nhận rõ vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, thể hiện rõ qua nhận định: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”4. Sau này, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”; nhấn mạnh vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát triển của cách mạng và của cả dân tộc, đây là quan điểm chỉ đạo, thể hiện tầm cao trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nhiều lần yêu cầu, phải làm cho văn hóa bồi đắp những tình cảm tốt đẹp như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu chân, thiện, mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất, căm thù mọi thứ “giặc nội xâm”...

_____________

1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.246.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318.
Bản thân “Cách đặt vấn đề” của Đề cương đã cho thấy tầm quan trọng của tư tưởng, học thuật và nghệ thuật đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; với vận mệnh nước nhà và công cuộc vun đắp nền văn hóa mới phong phú, giàu bản sắc. Bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc cần phải gắn liền, đi đôi với việc đồng thời triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn trọng phong tục tập quán, văn hóa các dân tộc ít người. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam vốn là một quốc gia phong kiến độc lập, kinh tế chậm phát triển, văn hóa lạc hậu. Khi thực dân Pháp xâm lược với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc nhân danh “khai hóa văn minh” chúng đã thực hiện những chính sách cực kỳ phi văn hóa, như chính sách ngu dân, chia để trị, đầu độc nhân dân ta, nhất là thanh niên bằng rượu cồn và thuốc phiện... làm cho đời sống vật chất của nhân dân ta vốn đã đói nghèo càng đói nghèo, đời sống tinh thần vốn lạc hậu ngày càng tăm tối, dốt nát.
Thứ tư, theo Đề cương, để thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta thì phải nắm vững ba nguyên tắc vận động, đó là: “Dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”. Ba nguyên tắc này đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới của Đảng và Nhà nước ta. Ở đây, ý nghĩa to lớn của Đề cương chính là xác định rõ ba phương châm, mà về thực chất là ba tính chất là gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học như ba trụ cột cơ bản, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững, đúng hướng.
Sau này, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2/1951), khi xác định đường lối phát triển cho nền văn hóa mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ và nhấn mạnh những nguyên tắc ấy: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”1.
Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc, khẳng định bản sắc dân tộc của các giá trị văn hóa được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7. tr.40.
và giữ nước của nhân dân ta và những giá trị này cần được vận dụng, phát huy mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và trong xây dựng phát triển nền văn hóa mới nói riêng. Yếu tố dân tộc làm nên bản sắc của nền văn hóa; vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, gốc của văn hóa mới là dân tộc.
Khẳng định tư tưởng của Đề cương, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao các giá trị văn hóa truyền thống. Theo Người, một nền văn hóa cách mạng có sức sống không được xa rời, mà phải gắn bó mật thiết với vận mệnh lịch sử của dân tộc, tình cảm dân tộc, các phong tục tập quán của dân tộc... - đó là những nhân tố cơ bản chi phối mạnh mẽ tính dân tộc của văn hóa. Trong Diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1946 mang ý nghĩa lịch sử, Người đã nhấn mạnh và căn dặn, cần phải trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam, phải lột cho hết tinh thần dân tộc.
Thứ năm, Đề cương chỉ rõ, để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, cần kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa hai nhiệm vụ “xây” và “chống”. Bản thân ba nguyên tắc lớn trong cuộc vận động xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng đã thể hiện rõ, ngay từ đầu, tinh thần đó: “dân tộc hóa” (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), “đại chúng hóa” (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng) và “khoa học hóa” (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít là phải chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, ngu dân, phỉnh dân; phát huy văn hóa tân dân chủ, kiên quyết đấu tranh về học thuyết, tư tưởng, đấu tranh về tông phái văn nghệ, tiến hành cải cách chữ quốc ngữ..., xây dựng “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”1.
Thứ sáu, Đề cương đã soi sáng, dẫn đường, “thức tỉnh” và tập hợp những văn nghệ sĩ, người hoạt động văn hóa và nhân dân đi theo con đường cách mạng của Đảng, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công. Nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng đã tự giác đi đến với

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
cách mạng và trở thành lực lượng chủ chốt để tham gia xây dựng nền văn hóa mới, và chính Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng những con người có trí tuệ sẵn sàng dấn thân theo tiếng gọi của lương tri, cùng sinh hoạt trong mặt trận Văn hóa cứu quốc. Chính việc xác định rõ lập trường tư tưởng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho quá trình vận động, phát triển của đất nước cũng như mục tiêu hướng đến là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, sẽ góp phần chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân. Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hầu hết các trí thức, văn nghệ sĩ đã giác ngộ con đường phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và coi đó là mục tiêu phấn đấu cao cả của sự nghiệp và cho cả cuộc đời mình. Đúng như đánh giá của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021: “Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945”1.
Tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển những giá trị mang tính định hướng, soi đường của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” trong bối cảnh mới
Trong thời kỳ đổi mới, những giá trị mang tính định hướng sâu sắc của Đề cương về văn hóa năm 1943 đã được Đảng ta kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo; nhờ đó, lý luận về văn hóa Việt Nam đã có những bước phát triển mới về chất, góp phần đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa Việt Namtiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,

_____________

1. Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979 (12/2021), tr.4.
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”1. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục khẳng định mục tiêu “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2.
Kế thừa quan điềm đó, Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng xác định: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Ðảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần”3.
Trong Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng, vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người được xác định là một trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”4. Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được xác định vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược để đẩy mạnh quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.46-47.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.17.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy, văn hóa là một nguồn lực tinh thần nội sinh có sức mạnh to lớn. Lịch sử đã minh chứng rõ rằng, trong những chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam giữa thế kỷ XX có phần không nhỏ là chiến thắng của sức mạnh văn hóa tiềm tàng được hun đúc qua bề dày truyền thống của một dân tộc yêu tự do, đấu tranh kiên cường vì chính nghĩa trước những âm mưu của các thế lực xâm lược phi nghĩa. Văn hóa còn đóng vai trò quan trọng trong việc soi đường cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển trong thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh hiện nay, sức mạnh kinh tế không còn là yếu tố mạnh nhất chi phối quyền lực quốc gia, mà “quyền lực mềm” quốc gia gắn với sức mạnh văn hóa ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi đất nước. Thực tế cũng đã cho thấy, chỉ khi quốc gia - dân tộc phát triển dựa trên nền tảng bản sắc văn hóa truyền thống có tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại thì mới bảo đảm các yếu tố cho phát triển bền vững. Nếu đánh mất bản sắc văn hóa hoặc chỉ dựa trên những trào lưu văn hóa du nhập, vay mượn hoặc sùng bái văn hóa ngoại lai thì một dân tộc thậm chí có thể sẽ biến mất, chứ chưa nói tới sự phát triển bền vững. Thành phần cơ bản tạo nên hệ thống phát triển bền vững là phát triển bền vững về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và phát triển bền vững về mặt môi trường. Song, muốn phát triển thực sự bền vững thì không thể bỏ qua yếu tố văn hóa; chính vì vậy, từ nhiều năm trước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, văn hóa ngày càng được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, có mối gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội; hơn nữa, văn hóa còn được xác định là sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Những năm gần đây, trong bối cảnh thế giới hội nhập nhanh, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam cũng như các quốc gia khác, sẽ không có nước nào lại từ bỏ các giá trị văn hóa đã được dân tộc mình tích lũy, lưu giữ lại trong quá khứ của dân tộc. Các giá trị, di sản văn hóa truyền thống trong quá khứ vẫn là hành trang, điểm tựa quan trọng cả trong hiện tại và trong hành trình đi đến tương lai. Tuy nhiên, thực tế cũng chứng tỏ một điều rằng, không một quốc gia nào chỉ cần và có thể dựa vào quá khứ hay giá trị truyền thống để tồn tại và phát triển. Các giá trị văn hóa truyền thống cần được gìn giữ, chưng cất, gạn lọc và phải phát huy, thăng hoa trong tương lai với tư cách là điểm tựa tinh thần cho văn hóa và con người Việt Nam đương đại. Theo nghĩa ấy, văn hóa phải trở thành sức mạnh nội sinh và động lực quan trọng cho tinh thần sáng tạo, đổi mới, tạo nguồn lực bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
*
*      *
Trong hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và về văn hóa nói riêng đã có bước tiến mới, luôn có sự kế thừa và phát triển những giá trị có vai trò định hướng và định hình nội dung, tính chất, hướng đi của một nền văn hóa mới. 80 năm qua, lịch sử cách mạng Việt Nam đã trải qua thời các kỳ phát triển khác nhau, có cả lúc thăng trầm, nhưng những tư tưởng của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 vẫn là ngọn đuốc soi đường, còn vẹn nguyên giá trị thời sự, mang tính định hướng to lớn, sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
 
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA VỚI KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ NHÌN TỪ “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
ThS. LƯƠNG QUỲNH HOA*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ra đời trong bối cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có vai trò quan trọng đối với sự thành công của cách mạng, kháng chiến, đặt nền móng cho sự khai phóng của nền văn hóa, văn nghệ mới mang đậm dấu ấn dân tộc, đại chúng và khoa học.
Với khoảng 1.500 chữ, nhưng Đề cương đã đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như phạm vi, tính chất, nguyên tắc vận động của nền văn hóa, sứ mệnh của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, đặc biệt là đã nhấn mạnh và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị.
1. Mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế
Mở đầu Đề cương là phần “Đặt vấn đề”, đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng mang tính lý luận, nhằm giải pháp những khúc mắc trong nhận thức, tư tưởng của con người về văn hóa nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận. Theo Đề cương, “mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”1. Như vậy, cùng với kinh tế, chính trị, văn hóa là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, là một “mặt trận”, một thành tố không thể tách rời, tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, xây dựng đời sống mới.

_____________

* Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2022, tr.12.
Nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa văn hóa, nghệ thuật với kinh tế, chính trị, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”1. Văn hóa không thể đứng ngoài, không thể tách mình ra khỏi đời sống xã hội, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị là một tư tưởng, quan điểm sâu sắc, tiến bộ, thể hiện tư duy sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của văn hóa, nghệ thuật. Văn hóa phải thẩm thấu, hòa quyện, hiện diện trong kinh tế và chính trị, là điểm tựa, sức mạnh tinh thần, là động lực, mục tiêu của các hoạt động đó.
Đề cập mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, Đề cương khẳng định: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)”2. Đây là quan điểm có sự vận dụng sáng tạo phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác, xem xét văn hóa và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội dựa theo hình thái kinh tế - xã hội.
Sáng tạo văn hóa gồm những sáng tạo vật chất và tinh thần nhưng sáng tạo về tinh thần giữ vai trò chủ đạo. Bàn về nội hàm khái niệm văn hóa, trong mục đọc sách của tập Nhật ký trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”3. Đồng thời, Người lưu ý năm điểm lớn khi xây dựng nền văn hóa dân tộc, đó là: 1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị: dân quyền. 5- Xây dựng kinh tế.

_____________

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.246.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.11.
  3. H              , t.3, tr.458.
Tuy nhiên, khi bàn về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, Người cho rằng văn hóa thuộc về thượng tầng kiến trúc, chịu sự chi phối, tác động của hạ tầng cơ sở là điều kiện kinh tế, xã hội của thể chế, chế độ chi phối. Lý giải về mối quan hệ này, Người cho rằng: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”1. Phát biểu tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng, Người nhấn mạnh: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa... Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”2.
Trước lúc “đi xa”, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”3.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa được xem là những nhiệm vụ trọng tâm, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước, góp phần trực tiếp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Mặc dù chịu sự chi phối, tác động sâu sắc của nền tảng kinh tế, cơ sở hạ tầng, nhưng văn hóa là một lĩnh vực đặc biệt, có quy luật vận động, có đời sống riêng, tác động trở lại đối với kinh tế, cơ sở hạ tầng. Văn hóa bao gồm những hoạt động sáng tạo, kết tinh ở hệ thống các giá trị, kiến tạo bản sắc của nền văn hóa. Nếu các sáng tạo đó mang tính vượt trước, mở đường với các giá trị tiến bộ, tích cực, nhân văn sẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa, con người trong quá trình kiến thiết, xây dựng nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, khi “trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”4. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Nhân đạo (L’Humanité)

_____________

1, 2. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa, văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.70, 75.
  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.612.
  2. H              , t.10, tr.458-459.
về nhân tố nào sẽ biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Người khẳng định: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kỳm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”1. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, Người khẳng định: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Ở chiều ngược lại, nếu văn hóa chứa đựng trong mình những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, văn hóa bị thực dân, đế quốc thống trị, chi phối bằng những âm mưu, thủ đoạn thâm độc thì nó sẽ kỳm hãm, làm chậm nhịp phát triển của nền kinh tế, cản trở đời sống xã hội, trói buộc con người. Vì thế Đề cương đề ra nhiệm vụ cần kíp trong tình thế lúc bấy giờ, đó là phải chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân. Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương... làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
Nhấn mạnh và giải quyết thấu đáo mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế, hạ tầng cơ sở, xã hội, Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định tính tất yếu của mối quan hệ qua lại, bổ sung, tác động lẫn nhau giữa kinh tế với văn hóa, đồng thời khẳng định quan điểm duy vật biện chứng, phản bác lại các quan điểm, tư tưởng muốn tách văn hóa ra khỏi đời sống xã hội. Văn hóa có mối liên hệ mật thiết với hiện thực cuộc sống, nó được nảy sinh từ thực tiễn, do đó văn hóa phải gắn chặt với đời sống xã hội.
Quan điểm văn hóa, văn nghệ phải gắn liền với hiện thực cuộc sống còn góp phần soi sáng, mở đường, đả thông tư tưởng cho một số văn nghệ sĩ, trí thức đang ở ngã ba đường của sự lựa chọn. Trong bóng đêm nô lệ, mang thân phận của người dân mất nước, dưới nhiều tầng áp bức, bóc lột, cai trị của thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, một số văn nghệ sĩ bi quan, chán nản thực tại, chạy trốn trong tháp ngà nghệ thuật với những sáng tạo bao trùm là nỗi buồn, sự cô đơn, chán chường, bi quan, bế tắc.
Dưới ánh sáng của Đề cương, nhiều văn nghệ sĩ đã thức tỉnh, tìm được con đường, hướng đi đến với cách mạng, kháng chiến; gắn bó mật thiết với
Đảng, với nhân dân. Khi tìm được lý tưởng cách mạng, được đứng dưới ngọn

_____________

           1. H                                                         , t.13, tr.190-191.
 
cờ vẻ vang của Đảng, nhiều văn nghệ sĩ không giấu nổi niềm vui sướng, tự hào khi từ “thung lũng đau thương” ra “cánh đồng vui”, từ “chân trời của một người” đến “chân trời của tất cả” (Chế Lan Viên). Khi được giác ngộ lý tưởng của Đảng, khi “mặt trời chân lý chói qua tim”, họ tự nguyện dấn thân, hòa mình với nhân dân, đất nước:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...”
(Tố Hữu)
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
Tôi sống với muôn người chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao”
(Xuân Diệu)
Khẳng định mối quan hệ, tác động qua lại này, Đề cương còn nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa trong việc tạo động lực tinh thần, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, mang lại cho cuộc sống những điều tốt đẹp, nhất là trong bối cảnh ngột ngạt của đất nước trong đêm trước của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Văn hóa cần phải phát huy vai trò “soi đường”, dẫn dắt dân tộc, nhân dân trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, tự do.
2. Mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị
Văn hóa có liên hệ với chính trị mật thiết, là bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng của Đảng. Nếu lĩnh vực kinh tế bảo đảm quá trình sản xuất, lưu thông, gia tăng sức mạnh, tiềm lực kinh tế quốc gia, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, văn hóa đảm đương kiến tạo nền tảng tinh thần của xã hội, thì chính trị có sứ mệnh định hướng sự phát triển, dẫn dắt, tập hợp quần chúng thông qua chủ trương, đường lối, quyết sách nhằm thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Văn hóa là một lĩnh vực của đời sống xã hội, chịu sự chi phối, tác động của thể chế, đường lối chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện.
Sự lãnh đạo của Đảng nhằm chỉ ra xu hướng vận động, mục tiêu hướng đến cũng như bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất cho văn hóa phát triển.
Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, cụ thể là mối quan hệ giữa Đảng với văn hóa, Đề cương khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động... Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Như vậy, công tác văn hóa, văn nghệ là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng, là một lĩnh vực trọng yếu mà người cộng sản phải làm tốt công tác lãnh đạo, định hướng để thông qua đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, qua những tác phẩm văn hóa, văn nghệ sinh động, hấp dẫn sẽ góp phần lan tỏa chủ trương, đường lối của Đảng đến quần chúng, củng cố niềm tin và khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc.
Sức mạnh và vai trò của văn hóa là rất to lớn, tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành nên nhân cách những con người mới. Đảng lãnh đạo văn hóa nhằm tạo ra đời sống văn hóa tinh thần phong phú, lành mạnh cho nhân dân. Đồng thời, trong bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, văn hóa đóng vai trò là một “mặt trận”, mà ngòi bút, trang giấy của người nghệ sĩ là những vũ khí sắc bén để lên án, tố cáo tội ác chiến tranh, âm mưu xâm lược của thực dân, đế quốc, cũng như cổ vũ tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết trong nhân dân. Đảng lãnh đạo văn hóa nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, thông qua lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ nhằm phát huy sức ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân, củng cố niềm tin và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bàn về mối quan hệ giữa cách mạng văn hóa với cách mạng chính trị, Đề cương nhấn mạnh: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công”2. Đối với nền văn hóa mới Việt Nam - một nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung sẽ

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.12-13, 21.
phát triển dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, do Đảng lãnh đạo. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo mang tính tất yếu khách quan nhằm định hướng cho sự vận động, phát triển của nền văn hóa mới theo các nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học.
Trong bối cảnh xuất hiện nhiều học thuyết, chủ nghĩa với không ít quan điểm, tư tưởng mơ hồ, sai lầm do chính sách ngu dân của thực dân Pháp, thuyết Đại Đông Á mà phát xít Nhật gieo rắc thì sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc đấu tranh, bảo vệ nền độc lập, tự do.
Sự lãnh đạo của Đảng tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động, chỉ ra con đường, tương lai đi tới của nền văn hóa mới - nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Đóng góp tích cực vào công cuộc kháng chiến kiến quốc, hình thành nhân cách những con người mới - con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ở chiều cạnh tác động ngược lại giữa văn hóa với chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích mình”1. Khi văn hóa hòa quyện trong hoạt động chính trị sẽ góp phần tạo ra môi trường làm việc nhân văn với những giá trị tiến bộ. Nó lan tỏa, tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái có ích; đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, giúp cá nhân và tổ chức không ngừng hoàn thiện mình để đáp ứng tốt những yêu cầu, đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra.
3. Quá trình bổ sung, phát triển quan điểm về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị trong văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới
Kể từ khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, đến nay tròn 80 năm. Tám thập kỷ qua, đất nước trải qua bao biến cố, với những cuộc đấu tranh

_____________

1. Báo Cứu quốc, ngày 25/11/1946.
anh dũng để bảo vệ và gìn giữ nền độc lập, tự do, thống nhất đất nước, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở kế thừa, bổ sung những quan điểm, định hướng chỉ đạo từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, trong đó quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị vẫn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự. Tuy nhiên, để thích ứng với bối cảnh, tình hình mới, nhất là quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và những yêu cầu đặt ra từ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng đã có những bổ sung và làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị.

Về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế

Bàn về mối quan hệ, tác động qua lại giữa văn hóa với kinh tế, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đề ra một trong những nhiệm vụ cấp bách để thúc đẩy văn hóa phát triển, đó là cần phải thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa chính sách văn hóa trong kinh tế. Cụ thể:
Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa; đồng thời, bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
  • Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động thể thao, dịch vụ văn hóa...), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.
  • Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí; trợ giá cho một số báo chí, văn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại và sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
  • Quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí, nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích...) được hưởng mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản).
  • Cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt động văn hóa theo quy định của pháp luật, nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội dung lành mạnh, bổ ích.
Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.
Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu, giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh. Chú ý tính thẩm mỹ, bản sắc dân tộc và tính hiện đại của kiến trúc trong xây dựng các khu dân cư, khu công nghiệp... Trong quy hoạch xây dựng các công trình lớn phải tính đến một số thiết chế văn hóa cần thiết nhất như: Thư viện, nhà thông tin, khu giải trí, bảo đảm cảnh quan môi trường cho các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa1.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước tiếp tục đề ra một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng, phát triển văn hóa thời kỳ mới là phải: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t.57, tr.317-318.
nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế”1.
Việc thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa còn nhằm mục tiêu khơi dậy và phát huy nguồn lực nội sinh, sức mạnh mềm của văn hóa đối với quá trình phát triển bền vững đất nước. Để thích ứng với xu thế phát triển văn hóa của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách văn hóa trong kinh tế nhằm khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường, bảo đảm sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp với những giá trị nhân văn, nhân bản luôn được kiến tạo, chia sẻ và lan tỏa đến cộng đồng.

Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị

Đây là mối quan hệ lớn, mang tính tất yếu, nhưng việc nhận thức đầy đủ, sâu sắc về mối quan hệ này vẫn còn nhiều hạn chế trong một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức và người dân. Nhấn mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với chính trị, nghị quyết của Đảng về văn hóa đề ra nhiệm vụ phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các cơ quan đảng, đoàn thể; khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đưa văn hóa thẩm thấu vào trong các hoạt động chính trị, trong tinh thần, trách nhiệm, thái độ, cung cách ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ, nghị quyết của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước... Phải đặt mạnh việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Văn hóa đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể,

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.53-54.
trong cán bộ, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên, ở các bậc cha mẹ, các thầy, cô giáo”1.
Nghị quyết Hội Trung ương 9 khóa XI (2014) tiếp tục nhấn mạnh: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên”2.
Xây dựng văn hóa trong chính trị nhằm khẳng định hình ảnh, vị thế của Đảng; củng cố niềm tin yêu và mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa Đảng, chế độ với nhân dân.
Xây dựng văn hóa trong chính trị nhằm gia tăng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, để chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam, cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ trung ương đến cơ sở... Phải quán triệt nghiêm túc quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”3.
Xây dựng văn hóa chính trị, một mặt khẳng định vai trò, sứ mệnh tiên phong của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”. Đồng thời, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận sự lãnh đạo của

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.322-323.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Sđd, tr.53.
  3. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.172.
Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ; đòi tách văn hóa, văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị là mối quan hệ tất yếu mang tính khách quan, giữa các lĩnh vực luôn có sự thẩm thấu, hòa quyện, bổ sung và tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, mỗi một lĩnh vực lại có đặc trưng, tính chất, quy luật vận động riêng. Nhận diện đúng bản chất của những mối quan hệ này góp phần khẳng định vai trò, vị trí to lớn của văn hóa đối với tiến trình vận động, phát triển của lịch sử, với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự ổn định, trong sạch, vững mạnh của thể chế chính trị. Ngược lại, kinh tế và chính trị cũng là những yếu tố nền tảng, định hướng, tạo xung lực mới để văn hóa ngày càng phát triển, bảo đảm cho quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước trong bối cảnh hiện nay.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943:
Ý NGHĨA VÀ THỰC TIỄN LÝ LUẬN

VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

ThS. BÙI THỊ HOA)
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện mang tính lịch sử quan trọng thể hiện ý chí quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng văn hóa của Đảng, hướng tới xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, tiệm cận được giá trị dân chủ. Sự ra đời của Đề cương khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với sự phát triển của đất nước ngay từ khi đất nước còn chưa thống nhất. Ở góc nhìn giá trị và thực tiễn, bản Đề cương năm 1943 không chỉ là một đường hướng, một cuộc vận động làm cách mạng văn hóa ở tại thời điểm lịch sử ra đời đó, mà đi vào từng nội dung Đề cương còn là những vấn đề, những khái niệm, luận cứ mang tính thời sự mở, đều có thể vận dụng mở rộng gắn với từng giai đoạn mới của đất nước bằng những cơ sở lý luận mới phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn như đề cương xác định: mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động (đây cũng là 3 trụ cột phát triển, ổn định đất nước), hay 3 nguyên tắc xây dựng nền văn hóa: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa... đều là những khái niệm, vấn đề mang tầm thời đại, đòi hỏi tính lý luận phải đặt phát triển văn hóa trong những mối quan hệ đó. Ý nghĩa thực tiễn của Đề cương là gợi mới những vấn đề và áp dụng một cách sáng tạo phù hợp với nhận thức, bối cảnh xã hội mới. Bởi Đề cương nêu bật được trọng tâm cốt lõi của văn hóa ở cả 3 tính chất khoa học, dân

_____________

) Phân viện Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh.
tộc và đại chúng, lấy chủ thể văn hóa là người dân và văn hóa phát triển phải là văn hóa sống - cho - vì cuộc sống hạnh phúc, ổn định của người dân và vận mệnh dân tộc.
Trong sự hiểu biết nhất định, từ mối quan hệ 3 trụ cột kinh tế - văn hóa chính trị, người viết chỉ thử vận dụng: từ cách đặt vấn đề phát triển văn hóa và phát triển kinh tế từ Đề cương 1943 đến gợi một số lý luận, phát triển từ mối quan hệ này trong bối cảnh mới hôm nay.
1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” ra đời là sản phẩm văn hóa cách mạng mang tầm định hướng trong một bối cảnh lịch sử đặc thù
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo trong hoàn cảnh tình hình thế giới, Đông Dương cũng như trong nước rất căng thẳng: khủng hoảng kinh tế thế giới; ở Ba Lan, Phần Lan, Áo, Nam Tư, Tây Ban Nha, Mỹ, Pháp, Anh... chủ nghĩa phát xít hình thành và phát triển. Đồng thời nền chuyên chính phát xít bộc lộ sự độc tài, tàn bạo, điên cuồng xúc tiến chuẩn bị Chiến tranh thế giới thứ II để chia lại thị trường và tiêu diệt Liên Xô - thành tựu của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Chủ nghĩa phát xít trở thành kẻ thù của nhân loại. Tình hình cấp bách đặt ra nhiệm vụ của giai cấp công nhân quốc tế thống nhất hành động ở từng nước, thiết lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Ở Đông Dương, chế độ phát xít cũng ra đời, thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng, giải tán các tổ chức quần chúng và tấn công Đảng Cộng sản. Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, lợi dụng sự thất thủ đầu hàng của các đế quốc có thuộc địa ở châu Á như Anh, Pháp, Hà Lan, phát xít Nhật nhanh chóng cướp lấy thuộc địa, nô dịch nhiều dân tộc ở thuộc địa này. Sau khi Pháp thất thủ, đầu hàng phát xít Đức thì 22/9/1940 Nhật Bản cho quân vượt biên giới Việt - Trung đánh vào Lạng Sơn; thực dân Pháp đầu hàng, ký với Nhật mà theo đó nước Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật. Đời sống người dân Việt lầm than, đói khổ dưới chính sách cai trị hà khắc, bóc lột kinh tế nặng nề... Đặc biệt các trí thức, nhân sĩ giai đoạn này bị hạn chế, bị bắt lôi kéo phải phục vụ theo tư tưởng văn hóa, phục vụ thống trị kiểu phát xít: đế quốc Nhật tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á, thực hiện tuyên truyền “tính ưu Việt của văn hóa Phù Tang” nhằm đánh lạc hướng người dân Việt khỏi con đường cứu quốc Đảng, rồi cổ
80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...
súy mê tín dị đoan1... Trong nước, được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng nước ta không ngừng phát triển. Mặt trận Việt Minh ra đời theo quyết định của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Pắc Bó (năm 1941) dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh nhằm tập hợp mọi lực lượng, đoàn kết toàn dân để thực hiện cấp bách nhiệm vụ giành lại tự do cho đất nước. Phong trào văn hóa tiến bộ được gây dựng ở khắp nơi tập hợp những trí thức, nhà văn hóa, nhà văn... và Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập. Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp soạn ra Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đặt cột mốc lịch sử thể hiện quan điểm của Đảng về vấn đề văn hóa và phát triển văn hóa.
Đề cương được xem như một văn kiện chính trị đầu tiên thể hiện quan điểm của Đảng về văn hóa, mang ý nghĩa lịch sử, đánh dấu một cuộc cách mạng văn hóa, mang nội dung định hướng văn hóa. Do vậy, khi đánh giá giá trị của Đề cương cần đặt trong quan điểm “lịch sử đặc thù” - đề cương ra đời trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, để thấy đóng góp của Đề cương. Đồng thời cần đặt trong bối cảnh tổng thể phát triển văn hóa từ năm 1943 - nay gắn liền với những thay đổi, định hướng đổi mới cả về nhận thức, chiến lược trong phát triển mọi mặt kinh tế, xã hội và hội nhập văn hóa... để thấy được Đề cương 1943 (trong một giai đoạn còn hạn chế về lý luận) nên nhiều quan điểm cần được bổ sung, đánh giá lại (Ví dụ như: tranh đấu về học thuyết, tư tưởng... làm cho thuyết duy vật biện chứng và lịch sử phải thắng; hay tranh đấu tông phái... làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng) hay làm rõ tính đại chúng hóa. Vì vậy, từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến những văn kiện của Đảng sau này cho tới Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là cơ sở lý luận về phát triển văn hóa, đánh giá đầy đủ các giá trị văn hóa, làm cho văn hóa sống động vào cuộc sống, chủ động hội nhập văn hóa thế giới... đã mở rộng và đưa quan điểm phát triển văn hóa trong nội dung Đề cương 1943 tiệm cận với thời kỳ hội nhập, kỷ nguyên số. Về cơ bản, quan điểm về văn hóa trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII

_____________

  1. Phạm Mai Hùng: “Bối cảnh ra đời và ý nghĩa văn hóa Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (2003), tr.6-7.
vẫn là nhất quán với Đề cương 1943 trên nguyên tắc kế thừa, bổ sung và phát triển đáp ứng phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Đề cương nhằm định hướng mà dựa vào đó để bổ sung những điểm khuyết, tiếp tục sáng tạo và hành động cho phù hợp với thực tiễn xã hội.
  1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 đặt ra nhiệm vụ lâu dài đối với phát triển văn hóa trong mối quan hệ với phát triển kinh tế
Trong “Cách đặt vấn đề” của Đề cương 1943 đưa ra ba khía cạnh khi bàn về văn hóa cách mạng: 1- Phạm vi vấn đề: văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Khái niệm văn hóa trong Đề cương được hiểu ở tầm nhìn văn hóa rộng gồm tất cả những hoạt động sống của con người. Đây là quan điểm nhìn văn hóa ở khía cạnh tổng thể; 2- Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, đây cũng là ba trụ cột của một nền văn hóa, phát triển đất nước. Đề cương nêu rõ: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc); 3- Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với văn hóa. Cách đặt vấn đề này thể hiện quan điểm của Đảng và triển khai thành các nội dung cụ thể cho đề cương. Từ đó khẳng định vai trò của Đảng trong lãnh đạo, văn hóa phải mang tính Đảng và cách mạng văn hóa cũng chính là cách mạng xây dựng Đảng. “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, văn hóa phải làm thay đổi đời sống tinh thần của dân tộc.
Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, đây cũng là trụ cột của một nền văn hóa. Đề cương nêu rõ: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựa trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc). Song, đến những giai đoạn sau mối quan hệ này đã không còn cái nhìn một chiều, đơn giản chỉ thấy cơ sở kinh tế kiểu nhận thức “kinh tế quyết định luận”, mà qua các kỳ Đại hội và đặc biệt tinh thần đổi mới nhận thức được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về văn hóa. Mối quan hệ này đã được làm rõ ở tính biện chứng: Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế, xã hội. Nói cách khác, sự phát triển xã hội chính là sự phát triển văn hóa và kinh tế tạo ra được những tiền đề để phát triển văn hóa. Từ mối quan hệ này đặt ra thực tiễn cần làm rõ cơ sở lý luận:
80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1943-2023)...

Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế

Làm rõ hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Đây là mối quan hệ biện chứng chứ không phải quan hệ một chiều, phản ánh sự phát triển bền vững của đất nước.
Phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế.
Định hướng giá trị cốt lõi phát triển kinh tế, văn hóa đảm bảo bền vững. Văn hóa được coi là sức mạnh mềm. Đầu tư cho văn hóa có nghĩa là đầu tư cho con người. Do vậy đòi hỏi xây dựng một môi trường văn hóa giàu bản sắc và giá trị hội nhập
- Chủ thể sáng tạo và thụ hưởng, trách nhiệm cũng cần được làm rõ trong mối quan hệ này.
Làm rõ vấn đề lý luận này, cần lưu ý trong mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế được rút ra từ việc đánh giá cách thức mà những đặc điểm văn hóa khác nhau thúc đẩy hoặc là cản trở sự phát triển kinh tế. Bởi tất cả các nền văn hóa khác nhau có những đặc trưng, đặc thù khiến chúng trở nên độc đáo và khác biệt so với các nền văn hóa khác nhưng đồng thời đôi khi những đặc điểm văn hóa này mang lại lợi ích kinh tế nhưng ở một thời điểm khác có thể lại là trở ngại cho sự phát triển kinh tế. Vì văn hóa còn là một tổng thể xã hội mang trong nó cả một hệ giá trị, tầng nhận thức, gồm cả phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, tư tưởng...
Hiện nay quá trình hội nhập giữa các nền văn hóa diễn ra mạnh mẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sự hiểu biết và gia tăng hàm lượng văn hóa trong các quan hệ quốc tế thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nền văn hóa. Do vậy, trong tương lai gắn với hội nhập văn hóa 4.0, văn hóa và kinh tế - mối quan hệ này cần được phân tích và làm rõ hơn, giúp quá trình hội nhập bền vững, làm cho văn hóa được gia tăng hàm lượng biểu đạt.
Văn hóa - bản thân văn hóa đã là một giá trị kinh tế mang lại lợi ích và phát triển cộng đồng, xã hội trong bối cảnh hội nhập văn hóa 4.0.
Theo báo cáo thì ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã đóng góp doanh thu khoảng 8,081 tỷ USD, tương đương 3,61% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trước dịch, sự phát triển nổi trội của 1 số ngành nghề đã cho thấy sự tăng trưởng của các ngành thuộc công nghiệp văn hóa, trong đó Điện ảnh: năm 2019 tổng doanh thu đạt trên 4,1 nghìn tỷ đồng; Du lịch văn hóa: năm
2019, tổng thu từ khách du lịch đạt 720.000 tỷ đồng, Quảng cáo: năm 2019, tổng doanh thu quảng cáo trên các phương tiện là 65.408 tỷ đồng. Đây là một thành quả dù còn khiêm tốn song cũng đáng ghi nhận khi văn hóa tưởng chừng chỉ là giá trị vô hình thì đã mang lại những giá trị hữu hình cho sự phát triển kinh tế, xã hội, tạo được giá trị gia tăng sáng tạo và việc làm, đóng góp vào kinh tế địa phương, nâng cao được giá trị bền vững cho cộng đồng. Văn hóa đã trở thành đòn bẩy, chất liệu cho những sáng tạo và sự tiếp xúc giữa nhà sản xuất sáng tạo, nghệ sĩ, công chúng và các công ty, đối tác kinh doanh làm tăng thêm tính năng động và sức mạnh tổng hợp. Và kinh tế tác động trực tiếp từ việc làm và tạo ra các giá trị cho ngành công nghiệp văn hóa.
Phát triển văn hóa và phát triển kinh tế, với một vài gợi mở để thấy tính định hướng ban đầu của Đề cương văn hóa 1943 đến hiện thực hóa làm rõ những vấn đề lý luận trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội hội nhập và toàn cầu hóa thì những định hướng này đã được tiếp nối và bổ sung trong những cương lĩnh mới về văn hóa của Đảng qua các kỳ đại hội và trở thành quan điểm chỉ đạo và cụ thể trong thực tiễn phát triển văn hóa của đất nước.
Tóm lại, qua 80 năm bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã chính thức trở thành như một diễn ngôn văn hóa chính trị gắn liền với tinh thần dân tộc, cách mạng văn hóa, thể hiện tầm nhìn của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo giải phóng dân tộc, được thể hiện cốt lõi với những vấn đề nền tảng của văn hóa và phát triển văn hóa ngay trong Đề cương. Đề cương đã đặt nền móng, đã đưa ra những vấn đề, những nguyên tắc, cả những giải pháp mà từ đó người làm văn hóa, ngành văn hóa xác định rõ những nhiệm vụ lâu dài, chú ý phát huy sáng tạo sức mạnh mềm của văn hóa.
Gắn với thực tiễn, phát triển văn hóa phải hướng tới phát triển bền vững: trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, văn hóa trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội, văn hóa với bảo vệ môi trường cũng cần được làm rõ, phân tích... tạo sự liên tục kế thừa và phát triển Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, ứng dụng biện chứng, khoa học vào thực tiễn cuộc sống. Từ Đề cương 1943 đến Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, đến Chiến lược phát triển Công nghiệp văn hóa Việt Nam và các chương trình phát triển văn hóa gắn với bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển văn hóa... sẽ là những mốc lịch sử đánh dấu từng giai đoạn phát triển văn hóa của Việt Nam luôn được bổ khuyết, làm mới ở một tầm nhìn mới.
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
ThS. HOÀNG THỊ THU HOÀI*
1. Vài nét về “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng soạn thảo và được công bố năm 1943 trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng và ngày càng ác liệt.
Ở Việt Nam thời kỳ này, tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa xã hội rất phức tạp, mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ngày càng sâu sắc. Nhân dân ta nói chung, trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên yêu nước nói riêng đã đứng lên đấu tranh chống lại phát xít Nhật và thực dân Pháp, đòi lại quyền tự do, độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, Nhật và Pháp đã cấu kết với bè lũ tay sai, dùng các thủ đoạn dã man, tàn ác, kể cả thủ đoạn “trói buộc văn hóa và giết chết văn hóa Việt Nam” để thực hiện mưu đồ xâm lược của chúng. Trong bối cảnh ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943 để bàn biện pháp đối phó với tình hình, quyết tâm đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước, tiến tới chặn đứng và đập tan âm mưu, thủ đoạn xâm lược của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đảng ta nhận định, trong lúc này, Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc nhằm chống lại văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu... Vì vậy, tại
Hội nghị Thường vụ Trung ương, Đảng ta khẳng định rõ đối với vấn đề văn hóa

_____________

* Phân viện Học viện Hành chính quốc gia tại thành phố Huế.
và được ghi trong Đề cương văn hóa công bố năm 1943, Đề cương ra đời đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử.
Tuy ngắn gọn, súc tích nhưng bản Đề cương đã thể hiện rõ các quan điểm, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc cần hướng đến, như sau:
Thứ nhất, xác định rõ nội dung, phạm vi, vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đề cương nêu rõ: văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động, không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Đồng thời, có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Thứ hai, cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở chỉ rõ tính chất văn hóa Việt Nam trong quá khứ và hiện tại (1943), chỉ rõ những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách thống trị của Nhật Pháp; những thủ đoạn của Nhật - Pháp trói buộc và giết chết văn hóa Việt Nam; dự kiến về tiền đồ văn hóa Việt Nam. Đề cương khẳng định cách mạng nhất định thắng lợi, văn hóa Việt Nam sẽ cởi được xiềng xích, đuổi kịp văn hóa mới, tiến bộ trên thế giới. Muốn vậy, phải làm cách mạng về văn hóa, “cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”.
Thứ ba, để thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta phải nắm vững “ba nguyên tắc vận động”, đó là: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Ba nguyên tắc đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới.
Đảng ta cũng khẳng định: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm...”. Có thể thấy, ba nguyên tắc trên là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm trọng đại của lịch sử. Dân tộc, đại chúng, khoa học đã trở thành khẩu hiệu, tính chất, đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam - một nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc, giàu bản sắc do nhân dân sáng tạo với khát vọng không ngừng vươn đến chân - thiện - mỹ, hướng đến tiến bộ, văn minh.
 
Thứ tư, để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, cần kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ “xây” và “chống”. Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít là phải chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, ngu dân, phỉnh dân; phát huy văn hóa dân chủ, cải cách chữ quốc ngữ...
2. Giá trị khoa học
Đề cương về văn hóa Việt Nam sở dĩ có sức lan tỏa mạnh mẽ và giá trị bền vững, bởi bản thân nội dung và cấu trúc của nó được tạo dựng và hoàn chỉnh với một phương pháp tiếp cận thực sự khoa học.
Dù là một văn kiện nhỏ, với dung lượng chỉ khoảng 1.500 từ, nhưng Đề cương lại là một công trình khoa học thực sự, lần đầu tiên trình bày văn hóa Việt Nam và những vấn đề có liên quan như một hệ thống cấu trúc với một phương pháp tiếp cận nhất quán. Khác với tính chất phiến diện, một chiều thường thấy trong các công trình nghiên cứu trước đó, Đề cương văn hóa đã trình bày văn hóa như một hệ thống bao gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều quá trình khác nhau, nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau: giữa tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; giữa văn hóa, kinh tế và chính trị; giữa các nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học; giữa lịch sử, nguy cơ và triển vọng,... Đề cương văn hóa đã đặt các mặt, các yếu tố, các quá trình trên đây trong mối quan hệ qua lại tất yếu với nhau, qua đó, làm nổi bật hệ thống các quy luật đã và đang chi phối sự vận động và phát triển của văn hóa Việt Nam.
Với luận điểm “... nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”, Đề cương đã thực sự đem lại một bước tiến mới về chất so với các phương pháp tiếp cận đương thời về văn hóa Việt Nam. Ở đó, với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, văn hóa phải phản ánh hiện thực và do cơ sở kinh tế quyết định. Đây chính là một nội dung căn bản của một trong những quy luật cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với phương pháp tiếp cận này, Đề cương đã trình bày và cắt nghĩa khá chính xác theo lập trường mácxít những vấn đề cốt lõi nhất của văn hóa Việt Nam đương đại: từ lịch sử có tính giai đoạn đến tính chất của từng giai đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam; từ những nguy cơ hiện hữu đến những nguyên tắc vận động của nó; từ tiền đồ đến mục đích trước mắt cũng như những việc cần kíp của những nhà văn hóa,...
Không dừng lại ở đó, Đề cương vạch ra lộ trình của cuộc vận động văn hóa Việt Nam với những hình thức, bước đi và mục tiêu phù hợp với điều kiện lịch sử. Theo đó, mặc dù khẳng định: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”, nhưng trên cơ sở phân tích điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, Đề cương văn hóa đã xác định tính chất của nền văn hóa mới mà Đảng ta chủ trương “chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa Xôviết”. Đây là một nhận định rất đúng đắn, cho phép ngăn ngừa ngay từ đầu những biểu hiện chủ quan, duy ý chí mang tính chất “tả khuynh”. Cũng theo lôgíc ấy, dựa chắc vào nguyên tắc lấy hiện thực lịch sử làm tiền đề, Đề cương văn hóa đã xác định dân tộc hóa, đại chúng hóakhoa học hóa là ba nguyên tắc vận động cho cuộc vận động văn hóa Việt Nam đương đại. Khẳng định phải dân tộc hóa vì văn hóa Việt Nam khi đó dưới ách áp bức của phátxít, thực dân đã và đang bị nô dịch và chia rẽ nặng nề. Đó là một nền văn hóa thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và thống nhất dân tộc. Đặt nguyên tắc khoa học hóa lên vị trí ưu tiên vì một nền văn hóa muốn thực sự mang tính cách mạng, trước hết nó phải có một nền tảng khoa học chắc chắn làm tiền đề. Trong khi đó, ở một nước nông nghiệp lạc hậu thì chủ nghĩa kinh nghiệm thường lấn át tri thức khoa học và khoa học trong một nước bị đô hộ thì khó mà được ưu tiên phát triển. Đại chúng hóa là một nguyên tắc của vận động văn hóa vì quần chúng là cội nguồn của sức mạnh, là chủ thể đích thực của mọi giá trị văn hóa. Nhưng trên thực tế lúc đó, văn hóa lại đang trở thành, hoặc là thứ xa xỉ mà quần chúng không thể với tới, hoặc là những sản phẩm độc hại, phản giá trị mà quần chúng không thể thụ hưởng.
Có thể nói, ba nguyên tắc nêu trên là cơ bản nhất, không thể tách rời nhau, phản ánh đúng nhất thực trạng và nhu cầu bức thiết của cuộc vận động văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ. Đồng thời, đây cũng là ba khẩu hiệu hành động, kêu gọi đội ngũ trí thức tập hợp lực lượng, xây dựng một nền văn hóa mới cho tương lai của dân tộc.
3. Giá trị thực tiễn
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tư tưởng của Đề cương mới thực sự được triển khai trong đời sống. Từ những ngày đầu kháng chiến, khi đất nước đang phải trải qua muôn vàn khó khăn và thử thách trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chỉ cho nhân dân biết trước mắt không chỉ có một thứ giặc, mà là ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Cả ba thứ giặc đều nguy hiểm như nhau, và chiến thắng ba thứ giặc đều vinh dự như nhau. Tư tưởng đó càng khẳng định quan điểm của những người cộng sản đối với lĩnh vực văn hóa: Văn hóa không tách rời sự nghiệp cách mạng. Quán triệt tư tưởng của Đề cương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến”. Văn hóa được coi như một mặt trận, một động lực và mục tiêu của cuộc kháng chiến. Văn hóa trở thành nội dung đồng hành của sự nghiệp kháng chiến. Sự nghiệp xây dựng văn hóa mới theo phương châm dân tộc, đại chúng, khoa học đã tạo tiềm lực cho sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc và mỗi bước thắng lợi của kháng chiến lại tạo tiền đề cho sự phát triển văn hóa. Kết quả là qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa nghệ thuật nói riêng đã “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn hóa nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay” (Nghị quyết Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam).
Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm qua đã chỉ ra rằng, cái gốc của đường lối văn hóa chính là Đề cương về văn hóa Việt Nam; và từ cái gốc rễ “nguồn cội” ấy, “cây” văn hóa ở nước ta ngày càng phát triển, thu được nhiều thắng lợi.
Thực tế đã chứng minh, ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam: “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” được nêu ra trong Đề cương văn hóa Việt Nam đã có tác dụng to lớn biến nền văn hóa Việt Nam từ một nền văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa phong kiến, thực dân, nô dịch trở thành nền văn hóa độc lập, tự chủ, vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc sau này.
Kể từ khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đến nay, hoạt động của các tổ chức văn hóa, văn nghệ của Đảng, nhất là hoạt động sáng tạo của các nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ ngày càng phong phú. Họ luôn bám sát nhiệm vụ của cách mạng, phản ánh sắc sảo, sinh động đời sống thực tiễn đấu tranh cách mạng; kịp thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây dựng đời sống văn hóa mới. Giương cao ngọn cờ cách mạng, tắm mình trong thực tiễn, trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu, sử dụng sáng tạo phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa, các văn nghệ sĩ nước ta thật sự đã trở thành những chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng; đã góp phần to lớn vào việc đưa ánh sáng văn hóa của Đảng đến với đồng bào, chiến sĩ, củng cố niềm tin chiến thắng cho họ. Qua đó, thổi luồng không khí cách mạng vào đời sống xã hội Việt Nam; đưa công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị ra đời, khắc họa sinh động hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ”, phản ánh sát thực chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; có tác dụng tuyên truyền, giáo dục to lớn... Nhờ đó, đường lối văn hóa của Đảng ngày càng sáng rõ, các tổ chức văn hóa ở nước ta ngày càng được củng cố, phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng. Lý luận văn hóa Việt Nam ngày càng phong phú và sắc nét. Văn hóa đã và đang có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang ra sức xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; làm cho văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trước đây cũng như hiện nay, ở nước ta, văn hóa luôn luôn là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Chăm lo xây dựng, phát triển văn hóa, văn nghệ là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội và nó là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức, các văn nghệ sĩ giữ vai trò nòng cốt.
Hiện nay, Đảng, Nhà nước, các ban, bộ ngành, địa phương, các tổ chức chính trị, văn hóa, xã hội đã và đang quan tâm xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện nhiều văn bản nhằm điều chỉnh và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa phát triển, phù hợp với tình hình mới. Các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương cũng được kiện toàn, củng cố và tăng cường. Nhiều công trình văn hóa mới được xây dựng và đang hoạt động có hiệu quả. Đời sống văn hóa ở cơ sở có bước phát triển, thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cách mạng; đồng thời, tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn, xóa bỏ các sản phẩm văn hóa có nội dung xấu độc, mê tín dị đoan, không để nó thẩm thấu, lan truyền vào đời sống cộng đồng, dân cư. Việc chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là những minh chứng khẳng định sức sống bền vững của đường lối văn hóa đã được Đảng ta vạch ra từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.
Cho đến hôm nay, không ai có thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn cũng như vai trò tiên phong mở đường, đặt nền móng lý luận cho công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam. Tinh thần chung của bản Đề cương vẫn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt các văn kiện sau này của Đảng ta về văn hóa, văn nghệ, góp phần định hướng và soi đường cho sự vận động, phát triển nền văn hóa Việt Nam lên những tầm cao mới.
 

DÂN TỘC HÓA VĂN HÓA: NHỮNG NGUYÊN TẮC

 KẾ THỪA GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VÀ TIẾP THU TINH HOA VĂN HÓA
TS. NGUYỄN THỊ HOÀN)
D
 
ân tộc hóa là một trong ba nguyên tắc căn bản được Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 nêu ra nhằm hướng tới xây dựng nền văn hóa mới. Ra đời trong bối cảnh lịch sử dân tộc bị cai trị, thực dân Pháp trong quá trình đô hộ đã không ngừng cổ xúy cho tư tưởng thân Pháp và ngăn cản các tư tưởng tiến bộ vào Việt Nam, tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Cùng thời điểm đó, phát xít Nhật ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á với tinh thần người Nhật đảm nhận sứ mệnh “cứu tinh” giống da vàng, nguyên tắc dân tộc hóa thể hiện rõ tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với tư tưởng độc hại đang tìm cách xâm lấn dân tộc Việt, văn hóa Việt. Theo tinh thần của nguyên tắc dân tộc hóa, văn hóa Việt Nam cần phải phát triển độc lập, chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, thoát khỏi sự phụ thuộc của văn hóa phát xít. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước và lòng tự tôn dân tộc được Đề cương xác định là con đường chính để thực hiện nguyên tắc dân tộc hóa. Với tinh thần đó, nguyên tắc dân tộc hóa trong Đề cương văn hóa năm 1943 có ý nghĩa rất lớn trong giai đoạn lịch sử của dân tộc và góp phần “soi sáng” một số vấn đề thực tiễn của văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các dân tộc trên thế giới đều đứng trước giải quyết về bài toán bản sắc dân tộc, trong đó có các vấn đề liên quan tới các giá trị truyền thống. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, song trên

_____________

) Phó Trưởng Khoa Cơ bản, Trường Đại học Trưng Vương.
bình diện chung, có thể thấy, xu hướng bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống hình thành bản sắc riêng của dân tộc vẫn được xem là xu hướng chủ đạo. Tại một số quốc gia có nền kinh tế phát triển của châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ... các giá trị truyền thống dân tộc được chú trọng quan tâm sớm. Trên thực tế, sự phát triển của nhiều quốc gia trong hội nhập chỉ ra bài học kinh nghiệm rằng: sẽ là sai lầm nếu quốc gia nào chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà “bỏ rơi” hoặc “đánh mất” nền văn hóa dân tộc, trong đó có bộ phận cốt lõi là các giá trị truyền thống. Hay nói cách khác, bằng cách “không lãng quên truyền thống, khai thác các giá trị nhân bản của truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập hoặc không mâu thuẫn với các giá trị truyền thống... đó là con đường tự nhiên và tất yếu mà các xã hội, dù muốn hay không, dù nhận thức được hay chưa nhận thức được, cũng đều phải thực hiện để đạt tới sự phát triển bền vững”.
Ở nước ta, các giá trị truyền thống của dân tộc như: Tinh thần yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng, lòng khoan dung, tinh thần hiếu học, cần cù siêng năng, lạc quan, yêu lao động... là những giá trị tiêu biểu của hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhấn mạnh vai trò của các giá trị truyền thống trong giai đoạn mới, Đảng ta đã khẳng định: “Đi vào nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không tự đánh mất mình, trở thành cái bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” và “phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc; kế thừa và phát triển truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc”. Vì những lẽ đó, có thể thấy, hiện nay việc kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc có ý nghĩa không chỉ trên phương diện lý luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Ngày nay, hội nhập quốc tế với những tác động đa chiều và diễn biến ngày càng sôi động, những nguy cơ mai một. Điều này không phải không có cơ sở, nhất là hiện nay, sự xâm nhập của các luồng văn hóa ngoại lai, sự xuất hiện lối sống, cách sống mới không phù hợp với các giá trị truyền thống của dân tộc đang ngày càng gia tăng. Trên cơ sở kế thừa tinh thần dân tộc hóa trong Đề cương năm hóa năm 1943 và thực tiễn của bối cảnh thời đại, để định hướng giá trị nhằm kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống một cách hiệu quả cần chú ý một số nguyên tắc cơ bản như sau:
Thứ nhất, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống hiện nay gắn với quá trình gìn giữ những “hạt nhân” của giá trị truyền thống và đổi mới các giá trị truyền thống theo yêu cầu của thời đại. Nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra rằng, quá trình vận động phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan liên tục diễn ra những lần phủ định kế tiếp nhau, song giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau, trong đó cái cũ, sự vật cũ không mất đi hoàn toàn mà nó được giữ lại những yếu tố hợp lý, tích cực làm nền tảng cho sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ. Đối với hệ giá trị truyền thống của người Việt, như đã nói, cho tới nay có rất nhiều giá trị phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước giai đoạn đổi mới và hội nhập. Hiện nay có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc cần phải được giữ gìn, bảo tồn như lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta, tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, đức tính cần cù, hiếu học... Trong quá trình xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, đây là những giá trị đã được chọn lọc, phù hợp với đặc điểm, tính cách con người Việt Nam. Việc kế thừa có chọn lọc những giá trị quý báu đó sẽ tạo ra những tiền đề, điều kiện để hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong giai đoạn mới.
Thứ hai, để đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc cần gắn với việc mở rộng các nội hàm các giá trị truyền thống để phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn, tinh thần yêu nước trong thời kỳ hội nhập có phạm vi và mức độ rộng hơn trước kia và mang mầu sắc hiện đại hơn, đó không chỉ là tình cảm của con người với quê hương, đất nước mình mà còn thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc, ở ý thức giữ gìn bản sắc truyền thống trước làn sóng xâm nhập của các văn hóa bên ngoài trong hội nhập, ở thái độ học tập nâng cao trình độ, áp dụng các thành tựu khoa học tiên tiến của nhân loại vào thực tiễn... Hay đối với giá trị cần cù, siêng năng trong giai đoạn hội nhập hiện nay không chỉ bao hàm thái độ chịu thương chịu khó lao động trên những tư liệu sẵn có mà còn phải đi liền với sự sáng tạo trên cơ sở việc nâng cao trình độ, tay nghề của người lao động nhằm tạo ra năng suất, hiệu quả trong công việc...
Thứ ba, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế cần tránh những khuynh hướng sai lầm trong nhận thức và thực tiễn, tiêu biểu nhất là hai khuynh hướng phủ định sạch trơn và khuynh hướng bảo thủ. Về thực chất, khuynh hướng phủ định sạch trơn là phủ nhận vai trò của các giá trị truyền thống đối với hiện thực, cổ xúy cho hành động xóa bỏ toàn bộ cái cũ xây dựng cái mới. Hậu quả của khuynh hướng này dẫn đến nguy cơ lạc hậu và chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong xu thế hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, cũng giống như bất kỳ yếu tố nào của ý thức xã hội, các giá trị không phải là bất biến, mỗi khi tồn tại xã hội thay đổi thì bản thân các giá trị truyền thống dù ổn định tới mấy cũng cần phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu của điều kiện thực tiễn. Không chỉ có vậy, các yếu tố truyền thống nói chung trong bối cảnh hội nhập bên cạnh những yếu tố tích cực và những yếu tố tiêu cực, có những giá trị phù hợp, có những giá trị đã lỗi thời, lạc hậu. Do đó, phủ nhận sạch trơn hay bảo thủ các giá trị truyền thống đều dẫn tới sai lầm đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng các giá trị truyền thống, trong tác phẩm Hội nhà năm 1985 có trích dẫn lời của Người về điều này rằng: Những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng thấm nhuần Chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông. Hồ Chủ tịch không quên nhấn mạnh lưu ý về các giá trị truyền thống trong đời sống với, Người cho rằng: “Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm...”.
Việt Nam được biết đến là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam, trong tương quan so sánh với dân tộc khác, là nền văn hóa mở, không cứng nhắc trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Con người Việt Nam từ xưa tới nay luôn được bạn bè quốc tế ca ngợi bởi sự thân thiện, hiếu khách, không có tư tưởng kỳ thị các dân tộc khác, không có thái độ cực đoan trong giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc khác. Người Việt Nam đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam không sợ các giá trị ngoại lai, mà sợ nhất là sự áp đặt các giá trị, sự đảo lộn hệ giá trị, đồng nhất hóa các giá trị. Nhấn mạnh tính tất yếu của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa đối với nền văn hóa Việt Nam, sinh thời Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại”. Và Người đã nhắc nhở các nhà văn hóa Việt Nam: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần tuý Việt Nam, để hợp với tinh thần dân chủ”.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một vấn đề có tính quy luật của mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Qua mỗi lần giao lưu, tiếp biến văn hóa với các dân tộc khác, nền văn hóa của dân tộc có cơ hội truyền bá ra bên ngoài, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác để làm phong phú thêm truyền thống văn hóa của dân tộc. Bản chất nền văn hóa Việt Nam theo tinh thần của văn kiện Đảng là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Vì vậy, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay không thể không tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại. Hiện nay, trước sự gia tăng của tình trạng gia tăng mức độ xuống cấp giá trị đạo đức từ khi thực hiện kinh tế thị trường, hiện đại hóa xã hội và tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bắt nguồn từ những ảnh hưởng của các luồng văn hóa từ bên ngoài không được kiểm soát chặt chẽ. Trên cơ sở kế thừa tinh thần của Đề cương về nguyên tắc dân tộc, việc tiếp thu những tinh hoa, văn hóa nhân loại đối với xây dựng hê giá trị con người Việt Nam là điều tất yếu không thể tránh khỏi song cũng cần phải dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận nhất định.
Mỗi tinh hoa văn hóa của nhân loại luôn gắn với tồn tại xã hội nhất định, do đó, sẽ là sai lầm nếu áp dụng nguyên xi các giá trị của nhân loại nếu không có sự chọn lọc và cải biến. Trên thực tế, đã có một số quốc gia dân tộc rơi vào tình trạng “mất bản sắc dân tộc”, bị “hòa tan” bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập khi tiếp thu “trọn vẹn” các tinh hoa văn hóa của dân tộc khác. Đồng thời, cũng không ít quốc gia phải nhận được sự “trả giá đau đớn” khi lựa chọn không đúng đắn những tinh hoa, văn hóa nhân loại khi hội nhập. Hệ quả của những lựa chọn chưa phù hợp các giá trị tiến bộ của nhân loại thường gây ra những tổn thất và hệ lụy rất lớn cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới hệ giá trị con người. Ở các quốc gia đang phát triển như nước ta, sự tính toán, cân nhắc một cách khoa học với các giá tiến bộ của nhân loại trong quá trình hội nhập là rất quan trọng. Bởi lẽ, từ thế kỷ XX đến nay tình hình chính trị quốc tế đã thay đổi nhiều, các quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp hơn. Để tránh các hiện tượng du nhập thiếu cân nhắc hoặc chưa phù hợp các giá trị bên ngoài cần có những chính sách hợp lý của Nhà nước với các nghiên cứu về con người, về hệ giá trị con người và các giá trị tiến bộ của nhân loại. Thêm nữa, trong bối cảnh hội nhập, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại vào điều kiện của nước ta cần tiếp thu, ứng dụng có hiệu quả phương châm “tư duy toàn cầu hành động địa phương”. Do đó, việc tiếp thu các tinh hoa, văn hóa nhân loại đòi hỏi sự nghiên cứu và lựa chọn nghiêm túc. Chúng tôi cho rằng, các giá trị tiến bộ của nhân loại hiện nay như: Tôn trọng, trung thực, trách nhiệm, bình đẳng, dân chủ, sáng tạo, hòa bình, đó còn là những quy tắc ứng xử văn minh, lối sống lành mạnh, tinh thần nhân văn nhân ái, thái độ tôn trọng pháp kỷ cương pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường tài nguyên thiên nhiên... Đây là những giá trị tiến bộ hiện nay hầu hết quốc gia lựa chọn.
Thứ nữa, khi tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại trong xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam giai đoạn hội nhập quốc tế cần tránh các xung đột với các giá trị truyền thống của dân tộc. Các giá trị truyền thống được hình thành gắn với lịch sử lâu dài của dân tộc, nó được xem là nền tảng tinh thần của dân tộc. Ở những thời điểm chuyển giao hay thời điểm có tính chất bước ngoặt về lịch sử khi có sự xuất hiện của các giá trị mới dễ dẫn tới những đụng độ nhất định với các giá trị truyền thống. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang diễn ra như một xu thế tất yếu hiện nay, quá trình giao thoa, va chạm các giá trị là điều khó tránh khỏi, đây cũng là cơ hội để nền văn hóa dân tộc có cơ hội thẩm định, thử nghiệm và lựa chọn các tinh hoa văn hóa của các dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp thu các tinh hóa văn hóa nhân loại đối với xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay cần tránh các xung đột với các giá trị truyền thống dân tộc. Bởi lẽ, đối với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, các giá trị truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng, khi xảy ra những xung đột giá trị, dễ dẫn tới những khủng hoảng giá trị, rối loạn xã hội. Về điều này, có ý kiến cho rằng: “Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp bị loại bỏ hoặc loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất định hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân cư khác nhau sẽ được đánh giá khác nhau. Tình hình đó dẫn đến thậm chí sự xung đột trong định hướng, đánh giá và niềm tin, tạo nên sự rối loạn của xã hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có lợi, có hại,... đối với cộng đồng, cá nhân, có thể bị đảo lộn; xã hội hoặc bộ phận dân cư nào đó, trong những trường hợp cụ thể, có thể bị mất phương hướng”. Từ những bài học về thực tiễn cho thấy để giảm thiểu các xung đột giá trị trong việc tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại với các giá trị truyền thống của dân tộc cần sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan liên quan, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa.
Hiện nay, kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống với tinh hoa văn hóa nhân loại đang trở thành phương án được nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh hội nhập, Nhật Bản là một ví dụ khá điển hình. Cũng giống như nhiều quốc gia ở châu Á, nền văn hóa Nhật Bản tiếp xúc khá sớm với văn hóa phương Tây. Trong qua trình giao thoa, những xung đột và khủng hoảng giá trị đã từng là vấn đề nan giải ở không ít các quốc gia. Hiện nay, chủ trương “Đạo lý Nhật Bản + Kỹ thuật phương Tây” của Nhật Bản được xem là một trong những giải pháp được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn trong bối cảnh hội nhập. Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và chỉ ra sự gắn bó mật thiết giữa dân tộc và quốc tế. Đó là sự gắn bó biện chứng giữa yếu tố chủ quan (dân tộc) và yếu tố khách quan (quốc tế). Khẳng định việc kế thừa các giá trị văn hóa của nhân loại để làm phong phú, đa dạng văn hóa dân tộc, nhưng Hồ Chí Minh cũng phê phán, chống lại “cách mượn” không phải lối, chối bỏ đi các giá trị vốn có của dân tộc, hay là sự tiếp thu xô bồ mọi thứ của thiên hạ, đồng thời cho rằng cần tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Đây thực sự là “Việt Nam hóa” những cái từ ngoài đến, biến chúng thành những cái bên trong, tự nhiên như những yếu tố nội sinh của văn hóa Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập, quá trình tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại cũng cần gắn liền với việc chia sẻ các giá trị tốt đẹp của dân tộc. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại song Hồ Chí Minh cũng không quên căn dặn những người làm công tác văn hóa về sự cần thiết chia sẻ các giá trị trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Đây chính là sự vận dụng phép biện chứng của “nhận và cho”, “vay và trả” trong tiếp xúc, giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa. Trở lại những nghiên cứu theo tinh thần nguyên tắc dân tộc hóa của Đề cương văn hóa năm 1943 một lần nữa cho thấy những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc về các vấn đề văn hóa dân tộc hiện nay, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến phát huy giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại trong bối cảnh hội nhập.
 
TỪ “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
ĐẾN XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH HỒNG*
I
T
 
ừ ngày 25 - 28/2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng
La (Đông Anh, Phúc Yên)1. Dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo đã được đưa ra bàn thảo tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương. Sau 13 năm công bố đường lối cách mạng Việt Nam trong Cương lĩnh chính trị (1930), bản Đề cương văn hóa - văn kiện văn hóa đầu tiên ra đời đã xác định quyền lãnh đạo văn hóa của Đảng; khẳng định mặt trận văn hóa phải do Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa là vấn đề có tính nguyên tắc và đó là cuộc cách mạng lâu dài, bền bỉ.
Bản Đề cương ra đời trong thời điểm bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng; dân tộc ta chịu ách nô lệ một cổ hai tròng; phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo bị đàn áp, khủng bố;... Dù trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, nhưng Đảng ta vẫn bình tĩnh, sáng suốt ban hành Đề cương văn hóa với mục đích là chống lại chính sách văn hóa phản động của thực dân Pháp, phát xít Nhật và tay sai của chúng, chống lại trào lưu lãng mạn có khuynh hướng cải lương, bi quan, bế tắc...
Toàn văn bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đăng trên Tạp chí Tiên phong

_____________

* Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương.
1. Nay là Đông Anh, Hà Nội.
số 1 đã thu tóm những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam1. Bản Đề cương ra đời đã “bồi đắp sự thiếu thốn trong chương trình hành động của Đảng giai đoạn trước”2; đặc biệt đã trang bị những lý luận căn bản cho cán bộ hoạt động văn hóa - tư tưởng; đặt nền móng lý luận căn bản và định hướng lâu dài cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Đây là văn kiện chính thức đầu tiên, tương đối hoàn chỉnh của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ; đã phân tích đúng đắn tình hình đời sống văn hóa dưới ách Pháp - Nhật, vạch ra đường lối văn hóa cách mạng và những nhiệm vụ trước mắt, tiến tới xây dựng nền văn hóa dân tộc, nhân dân. Đề cương chính là cuốn cẩm nang có tác dụng soi đường, giúp văn hóa Việt Nam vượt qua thời kỳ đen tối, hướng tới một tương lai rạng rỡ.
Nhận thức đúng đắn của Đảng được thể hiện ngay trong phần đầu về mối quan hệ vững chắc như “kiềng ba chân” giữa văn hóa với chính trị, kinh tế. Đề cương xác định: a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản hoạt động; b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả3.
Đề cương văn hóa đề cập đến các nội dung:
Thứ nhất, Đề cương nêu rõ quan niệm văn hóa của Đảng mới chỉ là nhận thức bước đầu: Phạm vi văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm nhiều thành tố trong đó có tư tưởng, học thuật và nghệ thuật là quan trọng. Trong khi khoa học nghiên cứu về văn hóa xuất hiện ở nước ta tương đối muộn, thì bản Đề cương văn hóa xuất hiện năm 1943 cho thấy “quan niệm về văn hóa mới mẻ, khoa học, phản ánh nhận thức đúng đắn chức năng văn hóa của những người mácxít” và việc đưa ra quan niệm về văn hóa như vậy

_____________

  1. Xem Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1986, t.2, tr.355-356.
  2. Theo Đặng Thai Mai.
  3. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.14-15.
chính là sự “vượt lên trước tư duy của thời đại ở Việt Nam”1. Vì thế, Đề cương văn hóa được coi là cách mạng nhất và tiến bộ nhất ở Đông Dương trong thời điểm đó.
Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam là phần quan trọng nhất của Đề cương:
  1. Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc
cải tạo xã hội;
  1. Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông
Dương lãnh đạo;
  1. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cách mạng triệt để mai sau2.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cách mạng lúc đó, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hóa; sự nghiệp văn hóa phải hình thành và phát triển, phải trở thành động lực của cuộc cách mạng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Trong bối cảnh đó, lúc bấy giờ, Đảng thừa nhận những cải cách văn hóa lúc này chỉ mang ý nghĩa dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để sau này. Đó chính là tư duy tôn trọng sự phát triển khách quan, không gò bó cứng nhắc theo kiểu rập khuôn máy móc, kìm hãm sự phát triển. Đảng khẳng định cuộc cách mạng văn hóa là một cuộc cách mạng lâu dài, bền bỉ, bởi công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới không phải một sớm, một chiều là có thể hoàn thành. Tính chất nền văn hóa xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng là mục tiêu mà Đảng đề ra3.
Thứ hai, Đề cương nêu tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam: Văn hóa mới Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo chủ trương chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa Xôviết. Văn hóa mới Việt Nam

_____________

  1. Bộ Văn hóa - Thông tin: 60 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, tr.41.
  2. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.11.
  3. Xem Phạm Duy Đức: Đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay, Nxb. Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2010.
là một nền văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung...
Thứ ba, Đề cương đề cập mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và cách mạng dân tộc giải phóng. Đảng khẳng định hai cuộc cách mạng này gắn bó mật thiết với nhau, trong đó cách mạng văn hóa phải dựa vào cách mạng giải phóng mới có điều kiện phát triển, cách mạng dân tộc giải phóng sẽ làm cho văn hóa Việt Nam có tính dân chủ và tính dân tộc chân chính, tiến bộ.
Thứ tư, Đề cương đề ra ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam ở nước ta giai đoạn này, đó là: “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”. Theo đó, phương châm “dân tộc hóa” là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập; “đại chúng hóa” là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng và “khoa học hóa” là chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ.
Sau khi nêu ba nguyên tắc, Đề cương lưu ý “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”1. Ba nguyên tắc trên có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Đó là nền văn hóa mang đậm tính dân tộc, tính nhân dân và tính khoa học. Điều đó đã được đồng chí Trường Chinh thể hiện trong diễn văn kỷ niệm 40 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam (27/12/1983):
Một nền văn hóa dân tộc mà không có tính khoa học và tính nhân dân thì có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp hòi của dân tộc mình mà đi ngược lại bước tiến hóa của lịch sử, cố níu lấy những cái cổ truyền đã lỗi thời của dân tộc mình mà không đặc biệt chú ý đến nguyện vọng thiết tha của công, nông là đa số người cần cù và yêu nước nhất trong dân tộc.
Văn hóa có tính khoa học mà không mang tính dân tộc và tính nhân dân thì rất có thể phục vụ khoa học của kẻ địch, đem lợi ích của mình phục vụ

_____________

1. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.15-16.
bọn thống trị, phản lại quyền lợi của nhân dân, phản lại độc lập dân tộc và hòa bình trên thế giới.
Văn hóa có tính nhân dân mà không có tính dân tộc và tính khoa học thì sẽ trở nên hẹp hòi, chỉ nhìn thấy lợi ích của công, nông mà không chú ý đến lợi ích của dân tộc để kháng chiến thắng lợi; hoặc theo đuôi quần chúng, không làm cho họ ngày càng giác ngộ thêm về chính trị, hiểu biết thêm về khoa học, kỹ thuật để vận dụng vào sản xuất, chiến đấu và đời sống hằng ngày1.
Nói về tính dân tộc, Đặng Thai Mai cho biết: Tính dân tộc chưa được chú trọng đúng mức mấy năm trước, từ nay đã được nêu lên hàng đầu...
Tiếp theo “dân tộc hóa” là “đại chúng hóa”. Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, nước ta lúc đó là một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, hầu hết nhân dân mù chữ. Văn học, hội họa, âm nhạc và nhiều thể loại văn học khác không phục vụ nhân dân lao động, mà chủ yếu phục vụ giai cấp thống trị. Đa số nhân dân lao động bị gạt ra ngoài đời sống văn hóa. Vì thế, văn hóa mới phải là văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, phải làm cho mọi người biết đọc, biết viết, biết thưởng thức và tham gia sáng tạo văn hóa, dẫn đến chiếm lĩnh các giá trị tinh thần mà dân tộc và nhân loại tạo ra.
Nguyên tắc “khoa học hóa” theo đồng chí Trường Chinh, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ lâu ngày dưới chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến. Những quan điểm duy tâm, thần bí siêu hình của văn hóa phong kiến, thực dân tồn tại dai dẳng, chi phối tâm lý và hành động của nhân dân. Tính chất bảo thủ còn in đậm trong nhiều phong tục, tập quán. Trong khi đó thực dân Pháp chẳng những không xóa bỏ tàn tích văn hóa phong kiến mà còn lợi dụng để thực hiện chính sách ngu dân của chúng2. Vì thế, “khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy, nhằm phát triển mọi mặt trên cơ sở khoa học. Nó lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam

_____________

  1. Xem Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
  2. Xem Phạm Duy Đức: Đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay, Sđd, tr.53-54.
hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động. Nó gạt khỏi đầu óc mọi người các loại thành kiến hủ bại, mê tín, dị đoan”1.
Đề cương khẳng định tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam là văn hóa có tính dân tộc về hình thức, tính dân chủ về nội dung. Chính vì thế, nó cách mạng nhất và tiến bộ nhất ở Đông Dương giai đoạn này.
Đề cương văn hóa đã vạch ra phương hướng đấu tranh đúng đắn chống thực dân, phát xít, xây dựng đường lối văn hóa mới của Đảng, tập hợp các nhà văn hóa, trí thức để tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Thứ năm, Đề cương đề cập đến những nhiệm vụ cấp bách của các nhà văn hóa mácxít:
Mục đích trước mắt của văn hóa Việt Nam là chống lại văn hóa phát xít, phong kiến thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân, phỉnh dân, phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương.
Công việc phải làm là: Cuộc đấu tranh chống những xu hướng, quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều tai hại ở nước ta nhằm bảo vệ cho học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Đề cương khẳng định: Ảnh hưởng của văn hóa phát xít làm cho tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hóa Việt Nam mạnh lên, nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nảy nở.
Đề cương cũng đề cập vấn đề tranh đấu về tiếng nói, chữ viết, đấu tranh chống các trường phái văn hóa phản động, nô dịch; tuyên truyền và xuất bản sách báo của Đảng, của các nhà văn hóa tiến bộ, chống nạn mù chữ...
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với sứ mệnh lịch sử đặc biệt như một ngọn cờ tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trí thức tham gia cách mạng, hướng đến cuộc đấu tranh giành độc lập, dân tộc. Từ khi ra đời, Đề cương đã thu hút được đông đảo trí tuệ của dân tộc trong và ngoài nước. Hội Văn hóa Cứu quốc ra đời và cơ quan ngôn luận của Hội là Tạp chí Tiên phong       số 1 ra tháng 7/1944. Thời gian này, Đảng ta đề ra nhiệm  vụ vận động tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên vào hàng ngũ cách mạng. Năm 1944, Đảng ta giúp một số trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ

_____________

1. Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Sđd, t.2, tr.360.
Việt Nam.        Cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ là tờ   Độc lập1. Đồng chí Trường Chinh đã khẳng định sức mạnh tập hợp đó: “Trí thức Việt Nam không chịu nhục mất nước. Họ khao khát tự do. Với Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng chỉ cho họ đâu là lối thoát. Muốn giải phóng trí thức, giải phóng toàn thể dân tộc... Và giải phóng dân tộc là giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển một cách tự chủ, theo hướng tiến bộ...          Đề cương về văn hóa Việt Nam đã vạch rõ con đường cách mạng để giải phóng trí tuệ và văn hóa trong sự nghiệp giải phóng chung của dân tộc”2. Tư tưởng Tổ quốc trên hết, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”   của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là ngọn cờ đã tập hợp mọi giai tầng xã hội, thành phần giai cấp đi theo cách mạng, kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, nhân dân. Nói như GS. Trần Quốc Vượng: Thế hệ những người như cha ông còn rất xa lạ với đấu tranh giai cấp, lý tưởng cộng sản... Nhưng nghe và tin theo Bác Hồ, theo ngọn cờ yêu nước, đấu tranh để giành độc lập dân tộc mà nhập thế, trở thành những con người được giác ngộ lý tưởng xã hội theo quan niệm cộng sản3.
Đề cương văn hóa là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học, nghiêm túc, là kết tinh trí tuệ, kinh nghiệm tập thể của những nhà lý luận mácxít Việt Nam trong quá trình vận động văn hóa. Theo đánh giá của GS. Nguyễn Đức Bình (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng): Đề cương văn hóa là đỉnh cao trí tuệ đương thời, là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh to lớn mà đất nước đang cần.
II
Đề cương về văn hóa Việt Nam như tên gọi mới là dạng đề cương, phác thảo một số luận điểm, luận cứ hoạt động của Đảng Cộng sản khi còn non trẻ

_____________

  1. Xem Lịch sử 80 năm ngành Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2010, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.46.
  2. Trường Chinh: Diễn văn đọc tại Lễ kỷ niệm lần thứ 40 ngày      Đề cương văn hóa               ra đời (1943-1983).
  3. Xem Trần Quốc Vượng: Theo dòng lịch sử, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1996.
trong điều kiện hoạt động bí mật. Nội dung Đề cương mới dừng lại ở những định hướng lớn, những nguyên tắc mang tính chất nền tảng, mới nêu ra những nguyên tắc hoạt động lớn mà chưa có điều kiện đi sâu vào những nội dung cụ thể, những quan hệ phức tạp trong một cương lĩnh văn hóa mới1. Vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. Dù ở dạng sơ lược, nhưng Đề cương văn hóa đã có vai trò rất lớn, định hướng xuyên suốt hoạt động trên mặt trận văn hóa, văn nghệ của Đảng và có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
 Kể từ khi ra đời đến nay tròn 80 năm, từ thực tiễn đường lối văn hóa, văn nghệ Việt Nam cho thấy tinh thần bản Đề cương vẫn hiện hữu trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kết luận chỉ đạo của Đảng; là kim chỉ nam cho dân tộc ta trên mặt trận văn hóa, văn nghệ; là ngọn đuốc soi sáng mãi cho những người làm công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn mới của cách mạng. Đề cương văn hóa ra đời, văn hóa, văn nghệ được đặt vào đúng quỹ đạo và từ đó đến nay bản Đề cương vẫn là ngọn đuốc soi sáng mãi cho những người làm công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn mới của cách mạng2.
Đề cương đã xác định những định hướng mới về nhận thức, hành động thực tiễn cho nền văn hóa của Đảng. Tinh thần bản Đề cương với giá trị cốt lõi (dù còn sơ khai), nhưng luôn được phát triển, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đất nước ở từng giai đoạn lịch sử. Có thể thấy các văn kiện định hướng quan trọng của Đảng sau này được soi sáng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Trên nền tảng ban đầu, tác giả soạn thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam lại tiếp tục phát triển, bổ sung, mở rộng trong định hướng chỉ đạo về văn hóa trong các văn kiện, như: “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam” (9/1944), “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” (1948), “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” (1957)...

_____________

  1. Xem Phạm Quang Long: “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943: Ngọn cờ tập hợp trí thức tham gia cách mạng”. Https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/de-cuong-van-hoaviet-nam-nam-1943-ngon-co-tap-hop-tri-thuc-tham-gia-cach-mang-143386.
  2. Xem Trường Chinh: Về văn hóa - văn nghệ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006, tr.15.
Trong “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam” (đăng báo Tiên phong số 2, ngày 1/12/1944), đồng chí Trường Chinh đã chỉ ra ba căn bệnh của văn hóa dân tộc: 1- Nước ta là một thuộc địa dưới quyền thống trị của đế quốc Pháp; văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tai hại làm cho nó bị nô dịch và chia rẽ, phát triển không đều; thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và dân tộc thống nhất... “lại lấy việc Âu hóa hay Nhật hóa làm vinh”, “văn học, hội họa, âm nhạc... có xu hướng Pháp hóa, hay Nhật hóa đến nỗi có khi mất cả bản sắc văn hóa dân tộc”... 2- Nước ta là một nước nông nghiệp... Không mấy ai để ý khoa học... óc khoa học của đồng bào ta vì thế rất mỏng manh, kém cỏi. Trình độ khoa học kém cỏi đó ảnh hưởng không tốt đến các ngành văn học, nghệ thuật”... 3- Một nước còn nhiều tàn tích phong kiến lại là thuộc địa như nước ta, quyền kinh tế, chính trị... Ở nước ta, bệnh mù chữ không kém nạn đói1...
Đề cương văn hóa đã nêu vấn đề “tranh đấu về tông phái văn nghệ”, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng... “làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”2, nhưng chưa nêu được vấn đề hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phải sau Đề cương văn hóa năm 1943, luận điểm này mới được đồng chí Trường Chinh trình bày tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1948, Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (1957), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III (1962), Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV (1968). Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (1948), Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, ông đã đọc báo cáo “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội”. Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, đồng chí đã phát biểu bản báo cáo “Tăng cường tính Đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ cách mạng tốt hơn nữa”. Tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV, đồng chí Trường Chinh nêu quan điểm đường lối văn nghệ của Đảng. Kế thừa ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II (1957), lần III (1962), đồng chí Trường Trinh

_____________

1, 2. Trường Chinh: Về văn hóa - văn nghệ, Sđd, tr.62-63, 31.
đã đưa ra yêu cầu “Muốn xây dựng nền văn nghệ chủ nghĩa xã hội, phải có những văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa”.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, tinh thần bản Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn nguyên giá trị, vẫn giữ tính nhất quán về đường hướng phát triển, nguyên tắc chỉ đạo, có sức lan tỏa, định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo nền văn hóa Việt Nam. Đề cương văn hóa năm 1943 đã thực sự mở đường cho đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng; tiếp tục kế thừa, phát triển, bổ sung trong những văn kiện của Đảng.
Là cương lĩnh về văn hóa đầu tiên của Đảng, bản Đề cương là ánh sáng soi đường, đảm nhận sứ mệnh lịch sử quan trọng đối với việc xây dựng, sự phát triển văn hóa Việt Nam, càng có ý nghĩa hơn trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Ba nguyên tắc trong Đề cương: “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” đã được bổ sung, điều chỉnh ở giai đoạn sau và có ý nghĩa lớn trong chỉ đạo, xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc. Năm 1944, đồng chí Trường Chinh đã chỉ ra, văn hóa Việt Nam - hay nói cho đúng văn hóa hợp pháp Việt Nam hiện nay mang 3 nhược điểm, ba căn bệnh lớn: phản dân tộc, phản khoa học, phản đại chúng. Vì thế, “phải kíp lập một mặt trận chống ba căn bệnh của văn hóa Việt Nam hiện tại. Cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này phải theo ba nguyên tắc, ba khẩu hiệu: Dân tộc hóa, Khoa học hóa, Đại chúng hóa. Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc độc lập và thống nhất, phải thẳng cánh đập tan... phải kiên quyết bài trừ... phải nhất luận phê phán”1...
Sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, Trung ương Đảng đã triệu tập một số văn nghệ sĩ dự Hội nghị thảo luận ba nguyên tắc: dân tộc, đại chúng, khoa học và thành lập Hội Văn hóa cứu quốc. Ngày 11/6/1945, một số văn nghệ sĩ phụ trách Hội Văn hóa cứu quốc đã họp bàn việc thực hiện Đề cương văn hóa của Đảng, xuất bản báo Tiền tuyến (sau này là tạp chí Tiền phong). Trong kế hoạch làm việc, Hội chủ trương ủng hộ phong trào cứu quốc và chống lại những xu hướng phản động; sửa soạn kiến thiết nền tân văn hóa và sau khi cách mạng thành công. Hội nghị định hướng những công việc cần làm ngay: sưu tầm, phổ biến những sách, báo nghiên cứu

_____________

1. Trường Chinh: Về văn hóa - văn nghệ, Sđd, tr.70-71.
về chủ nghĩa Mác; xây dựng nội dung báo Tiền tuyến gồm 4 mục, trong đó có mục Đề cương văn hóa.
Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng giai đoạn 1930-1945 đỉnh cao là Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 thể hiện sự trưởng thành của Đảng về tư tưởng, lý luận, tổ chức. Xuyên suốt trong đường lối văn hóa của Đảng giai đoạn này là mục tiêu và nhiệm vụ đấu tranh chống văn hóa nô dịch, phản động, xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Đề cương văn hóa đã thể hiện nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là kết tinh đỉnh cao trí tuệ của Đảng. “Đề cương văn hóa          đã trở thành một nguồn lực cách mạng mới, với nghĩa là nó không phải chỉ là lý trí, là đường lối, chủ trương chung, mà còn là tình cảm, là hành động thực tiễn, là mối dây liên kết giữa Đảng với dân tộc (đặc biệt là giới văn hóa, văn nghệ), là nét gạch nối giữa hiện tại với quá khứ và với cả tương lai”1.
Có thể nói, lịch sử văn hóa Việt Nam chính thức mở ra những trang mới từ Đề cương về văn hóa Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” về cơ bản là sự phát triển trên cơ sở ba nguyên tắc: “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”            , “khoa học hóa” của Đề cương văn hóa năm 1943. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, ba nguyên tắc trên luôn được vận dụng trong thực tế và thực sự đã trở thành những phương châm cơ bản cho một cuộc cách mạng văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu lên mục tiêu và những nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” đặt ra mục tiêu: “Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng

_____________

1. Huỳnh Quốc Thắng: “Đề cương văn hóa năm 1943: Giá trị lịch sử và ý nghĩa đối với tương lai là dân tộc”, VHO, ngày 13/2/2023.
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”1. Sau 15 năm, Đảng ta tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, tiếp tục nhấn mạnh tính chất của nền văn hóa thể hiện trong quan điểm chỉ đạo: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học...”2. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc...”3.
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1990-2000) khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu một bước tiến mới về đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa”4.
Nghị quyết số 23-NQ/TW khóa X đã xác định “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”5; chú trọng “Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.67, tr.652.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.330.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.294.
  5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.67, tr.653.
loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo”1.
Ngay từ đầu Đề cương, Đảng đã xác định cách mạng văn hóa có vai trò quan trọng không tách rời cách mạng kinh tế và cách mạng chính trị. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng luôn vận dụng linh hoạt, khéo léo. Thời điểm Đề cương ra đời, Đảng ưu tiên trước cách mạng chính trị để tạo tiền đề cho kinh tế và văn hóa phát triển. Văn hóa với tư cách là vũ khí tuyên truyền lợi hại sắc bén đã góp sức mình trong công cuộc cách mạng của dân tộc2. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó quan điểm 1 ngoài thừa kế từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII: “Văn hóalà nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước” đã phát triển thêm một ý quan trọng từ tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa: Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn... Văn hóa là một phạm trù rất rộng... Đến nay, trên thế giới có tới gần 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhưng chung quy có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hóa là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định (thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng,... văn hóa Đông Sơn, văn hóa lúa nước,...). Nghĩa hẹp: thì văn hóa là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức (lối sống, cách cư xử, ứng xử giữa người với người,...)3.
*
*      *

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.67, tr.653.
  2. Giáo trình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Nxb. Lý luận Chính trị, tr.100.
  3. Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.157-177.
Sự ra đời của Đề cương văn hóa đã đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, của thực tiễn cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 chính là cái gốc của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng; là một văn kiện đã đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam; là ngọn cờ tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia, phụng sự sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. 80 năm qua, Đảng ta đã có nhiều văn kiện chỉ đạo lĩnh vực văn hóa, văn nghệ phù hợp với từng thời kỳ lịch sử; nhưng Đề cương văn hóa vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn; định hướng lâu dài cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam và mang tầm vóc cương lĩnh của Đảng.
 
PHÁT HUY GIÁ TRỊ
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”

TRONG ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG

CỦA ĐẢNG, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA, VĂN NGHỆ
PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN)
N
 
hững tư tưởng văn hóa lớn thường ra đời vào bối cảnh chuyển tiếp mang tính cách mạng, có ý nghĩa đột phá, giải phóng văn hóa, nghệ thuật khỏi
sự cầm tù của các tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, khai sáng cái mới, tạo tiền đề ý thức - tư tưởng cho cách mạng xã hội. Mở đường cho cái mới, cái tiến bộ ra đời và phát triển, đòi hỏi tư tưởng - lý luận văn hóa phải thể hiện tinh thần đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái lạc hậu, thoái bộ. Ra đời trong bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nước ta chuyển biến nhanh chóng, Đề cương về văn hóa Việt Nam1 (sau đây gọi tắt là Đề cương) không chỉ mang ý nghĩa kiến tạo xây dựng nền văn hóa cách mạng, mà còn hiện thân cho tinh thần đấu tranh chống lại chính sách văn hóa thực dân, phát xít, chống lại các tư tưởng phản động hoặc những luận thuyết, trào lưu văn nghệ không có lợi cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.
Đề cương ra đời vào năm 1943 - khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đang chuyển sang giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho đấu tranh giành chính quyền. Thực dân Pháp và phát xít Nhật đều ra sức lôi kéo, ru ngủ trí thức,

_____________

) Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.
1. Được thông qua tại Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào tháng 2/1943, họp tại Võng La, Đông Anh, Phúc Yên.
văn nghệ sĩ, thực hiện các chính sách đầu độc về tư tưởng, hủy hoại nền văn hóa dân tộc với cường độ chống phá lớn hơn và thủ đoạn xảo quyệt hơn, mưu toan làm suy yếu sức mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trước chính sách của Pháp, Nhật, trí thức, thanh niên nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng phân hóa: một bộ phận lớn lừng chừng, thờ ơ với thời cuộc, vùi đầu vào “tháp ngà nghệ thuật”, lảng tránh trách nhiệm xã hội của người cầm bút; một số bị cuốn vào các tổ chức và hoạt động do Pháp, Nhật lập ra, quên đi nhiệm vụ cứu nước, thậm chí có người còn cam tâm làm bồi bút, tay sai; một bộ phận không nhỏ có tinh thần yêu nước, chống Pháp - Nhật, có cảm tình với Việt Minh. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 2/1943 chỉ rõ: “Văn hóa hết sức bị kìm hãm, bất cứ cái gì có ý nghĩa tuyên truyền và giải trí công chúng đều bị kiểm duyệt. Các nhà văn cấp tiến bị hạ ngục hay đe dọa. Nhưng một nhóm văn sĩ liếm gót giày, lĩnh phụ cấp ra sách báo, bợ đỡ Nhật Pháp và ca ngợi tục lệ phong kiến giật lùi”1. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương: “Vận động văn hóa - Đảng cần phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, v.v. phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức (ví dụ có thể tổ chức những nhóm “văn hóa tiền phong”, “nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”), v.v..”2.
Được rọi sáng bởi tinh thần đó, cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, văn hóa trở thành một mặt trận nóng bỏng, có quan hệ trực tiếp đến toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Kiến tạo nền văn hóa mới và đấu tranh với các chính sách văn hóa thực dân, phản động trở thành hai mặt của cuộc cách mạng văn hóa, có quan hệ thúc đẩy nhau. Không thể kiến tạo nền văn hóa mới nếu không bắt đầu bằng đấu tranh, bóc trần chính sách văn hóa phản động của thực dân, phát xít đang tiêm nhiễm, cổ xúy các tư tưởng lạc hậu, dị đoan, đầu độc tinh thần nhân dân ta. Đấu tranh với các tư tưởng, chính sách

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.283, 301.
sách văn hóa thực dân, bóc trần bản chất phản động và tính nguy hiểm, độc hại của nó trở thành nhiệm vụ cấp bách trong cuộc cách mạng văn hóa. Vì vậy, ngay từ lý do ra đời, nội dung của Đề cương đã toát lên tinh thần chiến đấu mạnh mẽ với các tư tưởng, chính sách văn hóa phản động của thực dân Pháp, phát xít Nhật và phong kiến tay sai.
1. Đề cương đã bóc trần bản chất phản động trong chính sách văn hóa của thực dân Pháp và phát xít Nhật, nguy cơ hủy hoại nền văn hóa dân tộc, đầu độc nhân dân, ru ngủ trí thức, văn nghệ sĩ, mưu toan làm cho họ quên đi trách nhiệm xã hội của người cầm bút trong sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Đề cương minh định nguyên tắc “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận văn hóa
Trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc lên cao, cả Pháp và Nhật càng lo sợ thì càng tìm cách đối phó, gia tăng mức độ sử dụng các công cụ tư tưởng, văn hóa mưu toan đánh lạc hướng dư luận, ru ngủ nhân dân, phân hóa, lôi kéo trí thức văn nghệ sĩ còn lừng chừng, hoang mang, bế tắc trước thời cuộc. Cường độ sử dụng công cụ tư tưởng, văn hóa được Đề cương vạch rõ ở cả đàn áp, cấm đoán các nhà tư tưởng, văn hóa tiến bộ và thành lập các cơ sở truyền bá văn hóa phẩm, thể thao, tổ chức triển lãm, diễn thuyết, ca kịch, chiếu bóng, trao đổi du học sinh...
Nếu trong chế độ thuộc địa truyền bá tư tưởng phản động là chủ trương nhất quán, xuyên suốt thì trong điều kiện chính quyền thực dân bị phát xít hóa càng lộ rõ tính phản động tột cùng. Việc nhồi sọ tư tưởng “Đại Đông Á” của phát xít Nhật hay cổ xúy các tư tưởng thần bí, hoài nghi, gieo rắc nỗi bi quan trong nhân dân của thực dân Pháp không khác gì đưa “thuốc độc tinh thần” vào đầu óc con người. Tính nguy hiểm của Nhật là lợi dụng tâm lý căm ghét, tinh thần chống Pháp của nhân dân ta mà đưa ra thuyết “anh cả da vàng”, tuyên truyền “chủ nghĩa Đại Đông Á”, làm cho không ít người ngộ nhận tưởng Nhật là “cứu tinh” cho người da vàng và văn hóa Nhật Bản đang “chiếu rọi những tia sáng văn minh tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông Á”1.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318.
Đề cương vạch rõ thực dân Pháp và phát xít Nhật không từ một mưu mô, thủ đoạn nào, như trấn áp, khủng bố, bắt bớ, giam cầm, hăm dọa, mua chuộc các nhà tư tưởng, văn nghệ sĩ tiến bộ, phân hóa lực lượng dân tộc; kiểm duyệt chặt chẽ mọi văn hóa phẩm; nâng đỡ, cấu kết với nhiều tổ chức tôn giáo để tuyên truyền cho các tư tưởng duy tâm thần bí gắn với dung dưỡng các hủ tục, tiếp tục cầm tù nhân dân ta trong vòng tăm tối, lạc hậu; làm ra vẻ săn sóc, quan tâm kiểu mị dân bằng cách cho lập trường cao đẳng thể dục, tổ chức các “phong trào thể thao”, các hoạt động hướng đạo sinh... làm cho người dân quên đi thân phận nô lệ, mất nước. Nhập khẩu các văn hóa phẩm cổ xúy cho tư tưởng lãng mạn, yếm thế,... để tuyên truyền trong thanh niên, thúc đẩy tư tưởng hoài nghi, làm cho người dân rơi vào bế tắc, bi quan, suy sụp tinh thần, không thấy lối thoát, triệt tiêu nhuệ khí dân tộc.
Đề cương sau khi nêu nguyên tắc “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” đều giải nghĩa nội dung đấu tranh với mọi biểu hiện phản dân tộc, phản đại chúng và phản khoa học. Chữ “hóa” có nội dung rộng hơn, bao hàm cả “xây” và “chống”, nhưng việc giải nghĩa cho các nhiệm vụ “chống” có ý nghĩa như chỉ ra công việc cấp bách lúc bấy giờ của văn hóa, nghệ thuật. Chỉ có chống lại các chính sách văn hóa phản động của Pháp, Nhật - những kẻ vừa thống trị về chính trị, vừa áp bức về xã hội, vừa nô dịch về văn hóa - thì mới xóa bỏ được lực cản lớn nhất, cơ bản nhất để mở đường cho cách mạng văn hóa, làm cho nền văn hóa mới nảy nở và phát triển.
“Dân tộc hóa” là trực tiếp hướng vào “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”1. Điều này được Đề cương nêu rõ khi xác định mục đích của chúng ta là “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân. Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương”2. Đây là vấn đề nóng bỏng, cấp bách, nằm trong tổng thể công cuộc cứu nước, giải phóng dân tộc, trong đó có xóa bỏ văn hóa nô dịch, phá tan mọi xiềng xích tư tưởng, văn hóa của thực dân, phát xít. Nếu chữ “hóa” thông thường để chỉ quá trình chuyển hóa, biến đổi

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.23-24, 26-27.
một sự vật từ thuộc tính này thành thuộc tính khác, thì “dân tộc hóa” là một sự nghiệp lớn lao, phức tạp hơn nhiều, làm cách mạng văn hóa thay cái cũ bằng cái mới trước hết thông qua cách mạng xã hội lật đổ chế độ thực dân, khôi phục nền độc dân tộc. Vì vậy, “dân tộc hóa” của Đề cương bao hàm tính chiến đấu quyết liệt trên địa hạt tư tưởng, văn hóa để phi thực dân hóa, loại bỏ các yếu tố thoái bộ, khẳng định và phát triển nền văn hóa mang bản sắc dân tộc. Đối tượng đấu tranh không chỉ các tư tưởng thực dân, phát xít, mà ngay kể cả các tư tưởng triết học, văn học, nghệ thuật theo xu hướng hoài nghi, bi quan, yếm thế đang bị chế độ thực dân lợi dụng ru ngủ nhân dân, có hại cho cứu nước, cũng cần phải đấu tranh kiên quyết. Nói cách khác, trọng tâm của “dân tộc hóa” về mặt văn hóa lúc này chính là làm thất bại mọi tư tưởng, chính sách văn hóa phản động của thực dân, phát xít đang đầu độc nhân dân ta, gây hại cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trước mắt và để lại nhiều hệ lụy lâu dài.
“Đại chúng hóa” là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc lừa phỉnh, mị dân, xảo trá, không xuất phát từ nhu cầu văn hóa của nhân dân, có hại cho đất nước. Đây là nguyên tắc bao hàm cả tính chất “xây” và “chống” trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Xét về mặt “chống”, đó là lật tẩy, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tư tưởng, mọi thủ đoạn đầu độc tinh thần nhân dân ta, những hoạt động lố bịch núp bóng văn hóa, thể dục, thể thao để lừa phỉnh, ru ngủ nhân dân. Đại chúng hóa được biểu hiện ở thúc đẩy các hoạt động văn hóa thật sự của quần chúng, có sức hấp dẫn, lôi cuốn quần chúng tham gia với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và thụ hưởng văn hóa. Trong chế độ cai trị hà khắc của thực dân, sử dụng các tổ chức quần chúng để thúc đẩy các hoạt động văn hóa hợp pháp, nửa hợp pháp có tác dụng rất lớn cho giáo dục, tập hợp nhân dân, bao gồm cả đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ. Chỉ có những tổ chức thật sự mang tính quần chúng sâu sắc thì mới đem lại giá trị tích cực cho quần chúng. Hội Truyền bá quốc ngữ là một tổ chức văn hóa mang tính quần chúng sâu sắc, giúp nhân dân ta từng bước làm chủ tiếng nói, chữ viết dân tộc, vừa nâng cao dân trí, dân khí, vừa khẳng định cốt cách dân tộc.
“Khoa học hóa” là chống lại những gì làm cho văn hóa trái với khoa học, phản tiến bộ, hướng tới văn minh. Phải đặt trong bối cảnh thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền tay sai lợi dụng các tư tưởng thần bí, duy tâm, dị đoan để ru ngủ nhân dân thì văn hóa với chức năng khai sáng phải tự xác định nhiệm vụ đấu tranh chống lại các tư tưởng lạc hậu, làm cho văn hóa thật sự hướng tới giá trị chân - thiện - mỹ. Đề cương kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... Nhiệm vụ phải làm lúc này là đấu tranh về học thuyết, tư tưởng, đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở nước ta, làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng thế; tranh đấu tông phái văn nghệ như chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng,... làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng thế. Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết, như thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói, ấn định mẹo văn (nguyên tắc, cấu trúc ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ - tác giả chú) của văn hóa, cải cách chữ quốc ngữ.
2. Đề cương khẳng định Đảng phải nắm lấy, giữ vững vai trò lãnh đạo trên mặt trận văn hóa, nghệ thuật; sử dụng đa dạng, linh hoạt phương thức đấu tranh trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ
Ngay từ “Cách đặt vấn đề” của Đề cương đã nêu rõ thái độ của Đảng ta đối với mặt trận văn hóa - một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) - mà người cộng sản phải hoạt động. Đảng không chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa; có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới có ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả. Qua cách trình bày của Đề cương cho thấy, Đảng sử dụng rất nhiều phương thức lãnh đạo văn hóa như lãnh đạo thông qua công tác tư tưởng, lãnh đạo thông qua tổ chức, lãnh đạo bằng cá nhân đảng viên, lãnh đạo bằng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, bảo vệ lợi ích thiết thực cho trí thức, văn nghệ sĩ... Có cả những hình thức đấu tranh trực diện và những hình thức đấu tranh gián tiếp thông qua phong trào quần chúng hợp pháp, nửa hợp pháp.
Đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, văn hóa là lĩnh vực rất phức tạp, kẻ thù sử dụng muôn vàn mưu mô tinh vi, xảo quyệt, nếu thiếu cơ sở phương pháp luận đúng đắn thì vũ khí tư tưởng, văn hóa không phát huy được tác dụng. Đề cương khẳng định, trong đấu tranh với các học thuyết, tư tưởng, tông phái văn nghệ phải dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chỉ trên nền tảng tư tưởng - lý luận văn hóa, văn nghệ mácxít mới bóc trần được bản chất các thủ đoạn của Pháp, Nhật; xử lý mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị phù hợp với thực tiễn công cuộc cứu nước, giải phóng dân tộc; giải quyết hợp lý những công việc cần kíp trước mắt và nhiệm vụ cách mạng văn hóa sau khi giành được độc lập dân tộc; đánh giá đúng đắn các mặt giá trị và phản giá trị, chức năng và phản chức năng của các sản phẩm văn hóa được truyền bá, ảnh hưởng lúc bấy giờ. Trong một bối cảnh mà nhiều nhà văn hóa, văn nghệ sĩ mất phương hướng, như dòng văn học hiện thực phê phán suy giảm tính chiến đấu, suy yếu năng lực phê phán, thậm chí đi vào những vấn đề thân phận cá nhân con người, trong khi vấn đề lớn là cứu nước, giải phóng dân tộc; văn học lãng mạn sau thời kỳ phát triển mạnh mẽ đã rơi vào khủng hoảng, bế tắc, thậm chí xuất hiện các mầm mống bệnh hoạn, có hại cho cách mạng, cho nhân dân... thì quan điểm phương pháp luận mácxít giúp cho không ít nhà văn hóa, văn nghệ sĩ lấy lại tinh thần, phản tỉnh trước thời cuộc, xác định đúng trách nhiệm xã hội của người cầm bút. Dựa trên nền tảng tư tưởng - lý luận của Đề cương mà tác phẩm Văn học khái lược của Đặng Thai Mai ra đời một năm sau đó đã phân tích, lý giải nhiều vấn đề văn học theo quan điểm mácxít có hệ thống1, góp phần giúp không ít nhà văn định hình lại tâm thế, nhận rõ trách nhiệm trước dân tộc, trước xã hội, khắc phục các biểu hiện bi quan, hoài nghi, mất phương hướng trước đó.
Đề cương chủ trương sử dụng đa dạng phương pháp tổ chức, vận động, tập hợp lực lượng đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Phương thức đấu tranh trên trận địa tư tưởng, văn hóa, văn nghệ được Đề cương chỉ rõ là: lợi dụng tất cả khả năng công khai và bán công khai để tuyên truyền, xuất bản, tổ chức các nhà văn, tranh đấu giành lại quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ...; phối hợp phương pháp bí mật và công khai thống nhất

_____________

1. Xem Phạm Quang Long: “Vị trí và vai trò của văn hóa trong thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945”, ngày 30/8/2018, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/vi-tri-vavai-tro-cua-van-hoa-trong-thang-loi-cua-cach-mang-thang-tam-nam-1945.html.
mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mácxít1. Thành công nổi bật sau khi Đề cương ra đời là thành lập Hội Văn hóa cứu quốc tập hợp được đông đảo các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ có uy tín làm nòng cốt cho phong trào văn hóa, văn nghệ. Thông qua Hội, Đảng ta đã tập hợp, giáo dục, vận động, định hướng cho văn nghệ sĩ hướng văn hóa, văn nghệ phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi dư địa cho đấu tranh công khai không còn như những năm 1936-1939, Đảng chủ trương sử dụng các hình thức đấu tranh phù hợp, đặc biệt là thúc đẩy hoạt động của Hội Truyền bá quốc ngữ và lợi dụng các tổ chức đoàn thể do Pháp, Nhật lập ra để gây ảnh hưởng, tuyên truyền tinh thần yêu nước, giác ngộ, giúp họ hiểu rõ Việt Minh, thúc đẩy các hoạt động có lợi cho cách mạng, hạn chế những tác hại trước thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của Pháp, Nhật.
3. Giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương tiếp tục rọi sáng công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay
Đề cương được xem như cương lĩnh văn hóa soi đường, dẫn lối, thúc đẩy mặt trận văn hóa trong sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới sau ngày giành độc lập, thống nhất. Nhìn từ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, Đề cương vẫn thổi hơi nóng mang tính thời sự:
- Đề cương ra đời từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong một thời đoạn đặc biệt khó khăn với nhiều thử thách cam go, tự nó mang đầy khí phách, bản lĩnh và tinh thần chiến đấu. Tinh thần của Đề cương cho thấy, còn mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc thì đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa luôn là vũ khí phê phán trọng yếu mà Đảng phải nắm lấy, sử dụng để bảo vệ chân lý, lẽ phải, bảo vệ lợi ích của giai cấp và dân tộc, đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái thoái bộ, cổ vũ và thúc đẩy giá trị chân thiện - mỹ, mở đường cho cách mạng xã hội. Tư tưởng chỉ đạo phàm những gì phản dân tộc, phản nhân dân, phản khoa học đều phải chống lại, kiên quyết

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320-321.
đấu tranh vẫn còn nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau. Cách thức xây dựng nền văn hóa mới phải bắt đầu từ chống lại cái phản động, thoái bộ, gắn cách mạng văn hóa với cách mạng xã hội vẫn tiếp tục rọi sáng công tác tư tưởng, văn hóa. Điều này cũng đòi hỏi công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải đặt nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, văn hóa đúng tầm của nó, nhất là trong thời đại số xuất hiện không ít văn hóa phẩm ngoại lai không phù hợp cho xây dựng, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, thậm chí có cả nguy cơ xâm lăng văn hóa, đe dọa lợi ích quốc gia - dân tộc. Không chỉ đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, phản động mới cần đến vũ khí tư tưởng, văn hóa, mà kể cả muốn có hợp tác, hội nhập văn hóa hiệu quả cũng cần phải có định hướng tư tưởng - lý luận văn hóa đúng đắn, sáng suốt. Thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật xứng tầm sự nghiệp đổi mới, trong nhiều trường hợp không hẳn do thiếu nguồn lực đầu tư, mà quan trọng hơn là tư tưởng - lý luận văn hóa, văn nghệ chưa đủ năng lực định hướng, dẫn dắt. Từ tinh thần của Đề cương cho thấy, muốn phát triển nền văn hóa dân tộc thì phải bắt đầu từ nâng tầm công tác tư tưởng - lý luận văn hóa, văn nghệ, làm cho nó đủ sức định hướng, dẫn dắt, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới.
  • Giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương cho thấy, nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng - lý luận văn hóa, văn nghệ luôn đặt ra ở mọi thời kỳ, nhưng tùy từng bối cảnh và mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng cụ thể mà lựa chọn nội dung đấu tranh phù hợp. Chủ nghĩa đế quốc văn hóa vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng, tinh vi, được truyền bá qua các học thuyết chính trị - an ninh, qua sức mạnh mềm, qua du học, qua xuất - nhập khẩu văn hóa phẩm, qua các nền tảng số xuyên biên giới... Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không từ một thủ đoạn nào mưu toan phủ nhận thành tựu của nền văn nghệ cách mạng, xuyên tạc đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, cổ xúy cho cái gọi là “văn nghệ độc lập với chính trị”, ra sức kích động, lôi kéo trí thức, văn nghệ sĩ qua không gian mạng. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” ban hành kịp thời đã có tác dụng định hướng tư tưởng - lý luận, tập hợp lực lượng, tổ chức các phương thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung và tư tưởng văn hóa, văn nghệ nói riêng. Chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, văn nghệ rất phức tạp; có hoạt động công khai chống phá trắng trợn; có hoạt động xuyên tạc, chống phá tinh vi núp bóng các hình tượng văn học, nghệ thuật; có hoạt động chống phá từ bên trong, hoặc từ bên ngoài; có hoạt động cấu kết, phối hợp trong - ngoài... Không ít người cầm bút lừng chừng, ngả nghiêng, dao động; có người đã từng tham gia cách mạng chuyển sang “trở cờ”, “sám hối”, phủ nhận cả những “đứa con tinh thần” của mình trước đây. Từ tinh thần của Đề cương cho thấy, muốn đấu tranh có hiệu quả thì phải nhận diện đúng các biểu hiện chống phá, cơ hội, suy thoái tư tưởng chính trị hoặc hành vi có nguy hại đến tư tưởng, văn hóa, trên cơ sở đó mới xác định đúng phương pháp đấu tranh từng đối tượng. Không gian mạng đang trở thành mặt trận chính của cuộc đấu tranh tư tưởng, văn hóa, văn nghệ mà chúng ta phải nắm lấy, giữ vững tính chủ động và tổ chức lực lượng đấu tranh một cách kiên quyết, đồng bộ thông qua cả đấu tranh chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp lý, hành chính...
  • Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng bảo đảm thành công của công cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng, văn hóa. Đề cương ra đời xác định các phương pháp, hình thức, cách thức lãnh đạo đa dạng, linh hoạt của Đảng, phù hợp lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, trở thành nhân tố quyết định nhất bảo đảm thành công của cuộc đấu tranh. Đấu tranh tư tưởng trước hết cần đến vũ khí tư tưởng - lý luận sắc bén đủ sức bóc trần cơ sở kinh tế, chính trị, nguồn gốc tâm lý, xã hội của mọi luận thuyết đang chi phối đến tư tưởng người cầm bút như Đề cương đã chỉ rõ; cần đến các tác phẩm lý luận văn hóa, văn nghệ xứng tầm, đủ sức định hướng, dẫn dắt xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nước nhà thời kỳ mới. Tiếp tục xây dựng, đổi mới các hình thức tổ chức với tư cách là môi trường hoạt động của chủ thể sáng tạo văn hóa, nghệ thuật - cả đối với tầng lớp tinh hoa và quảng đại quần chúng - thông qua đó tập hợp lực lượng đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, văn nghệ (như trường hợp Hội Văn hóa cứu quốc và Hội Truyền bá quốc ngữ trước đây). Trong giai đoạn hiện nay, đó chính là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của văn nghệ sĩ, viện nghiên cứu của trí thức, “think tank” của các chuyên gia, rồi các định chế truyền thông, xuất bản, diễn đàn, kể cả các nhóm hoạt động... tác chiến trực tiếp trên không gian mạng. Gắn với xây dựng thiết chế - tổ chức là chăm lo phát triển đội ngũ nòng cốt trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ, chuyên gia, nhà khoa học với bản lĩnh chính trị vững vàng, sắc bén về lý luận, dày dạn thực tiễn, có uy tín quy tụ lực lượng trí thức. Tinh thần của Đề cương dạy chúng ta không vơ đũa cả nắm, phân biệt rõ tư tưởng văn hóa phản động với những tư tưởng ảnh hưởng đến hoạt động sáng tác của văn nghệ sĩ mà không có lợi cho nhiệm vụ cách mạng trong những giai đoạn cụ thể; bọn bồi bút, bám gót ngoại bang và những người lừng chừng, hoài nghi, dao động, ngả nghiêng; những người thể hiện “trách nhiệm xã hội” của trí thức bằng phản biện với những kẻ mượn danh “phản biện” để chống phá... Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh trên địa hạt tư tưởng - lý luận văn hóa, văn nghệ là đập tan mọi chính sách, thủ đoạn thực dân về văn hóa, cô lập bọn phản động, phần tử cơ hội nhưng giáo dục, cảm hóa, lôi kéo những người lừng chừng đứng về phía đất nước, nhân dân, vì chân lý, lẽ phải. Nhờ chỉ dẫn của Đề cương mà Đảng đã giáo dục, lôi cuốn không ít nhà văn hóa, văn nghệ sĩ trước đó ẩn dật, nương náu trong “tháp ngà nghệ thuật” từng bước thay đổi lập trường, tham gia sự nghiệp cứu nước, thể hiện trách nhiệm xã hội của người cầm bút, có nhiều đóng góp quan trọng cho dân tộc và nhân dân.
 
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN
CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HÓA - NHÌN TỪ
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NHỮNG GIÁ TRỊ SOI ĐƯỜNG
TS. DƯƠNG MINH HUỆ)
H
 
ơn 90 năm ra đời, lãnh đạo cách mạng đạt được những thành tựu vĩ đại,
Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện tư duy lý luận trên những lĩnh vực quan trọng, trong đó tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, đặc biệt là tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, đặt nền móng nhận thức sâu sắc, sáng tạo, khoa học, cách mạng, nhân văn cho đường lối văn hóa phát triển và hội nhập của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
1. Tư tưởng văn hóa cứu quốc, giải phóng dân tộc, góp phần kháng chiến thắng lợi, thống nhất đất nước (1943-1975)
Với những kiến thức sẵn có và những trải nghiệm thực tiễn trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm đưa ra khái niệm văn hóa, quan điểm xây dựng nền văn hóa dân tộc: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của

_____________

) Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
sự sinh tồn”1. Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh, năm 1943, Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam với tư tưởng “Tổ quốc trên hết”, trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, khơi dậy khát vọng yêu nước vì độc lập của mỗi người dân. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh đất nước đang chịu cảnh nô lệ, lầm than, bị thực dân đế quốc đô hộ và địa chủ phong kiến bóc lột, do đó, tư tưởng soi đường của Đề cương chính là việc nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít, tác động lẫn nhau giữa cách mạng văn hóa Việt Nam và cách mạng dân tộc giải phóng, cách mạng văn hóa chỉ có thể thực hiện được khi cách mạng dân tộc giải phóng thành công, khi dân tộc hoàn toàn độc lập: “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển”2 và “Cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp may mắn nhất đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới”3. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đảng ra đời (năm 1930) đã đưa ra một bản Đề cương văn hóa có giá trị như Cương lĩnh văn hóa xác định nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển cách mạng văn hóa gắn với cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy “sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”4. Tiếp nối tư tưởng đó, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa, ngày 16/11/1946, Tổng Bí thư Trường Chinh viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước”, nêu rõ nhiệm vụ của văn hóa cách mạng lúc này là “phải kích thích tinh thần khởi nghĩa, làm sôi nổi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân nổi dậy tất cả giành lấy chủ quyền; kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy”5. Với tinh thần ấy, các nhà văn hóa Việt Nam “phải tích cực tham gia mặt trận dân tộc, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng nước”6 và “Mặt trận văn hóa Việt Nam phải

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.319, 319, 318.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.144, 144-145.
là một bộ phận khăng khít của mặt trận dân tộc thống nhất giành độc lập (văn hóa không thể biệt lập với chính trị)”1, đồng thời khẳng định các nhà văn hóa Việt Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, phải đứng trên lập trường chung là dân tộc và dân chủ mà phụng sự Tổ quốc.
Đường lối văn hóa kháng chiến dần hình thành và được thể hiện rõ trong bức thư về “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của Tổng Bí thư Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946. Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24/11/1946 tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội. Khẳng định về mục tiêu của văn hóa dân tộc, diễn văn khai mạc tại Hội nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”2 và “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tiếp tục khẳng định mục tiêu ấy của văn hóa, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (từ ngày 16 đến 20/7/1948) tại Phú Thọ, trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng... Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”3. Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” chỉ rõ lập trường văn hóa cách mạng trên thế giới và của nước ta là: “Về xã hội, lấy giai cấp công nhân làm gốc. Về chính trị, lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.146.
  2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng:
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.3, tr.321.
  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.577.
 
dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa xã hội hiện thực làm gốc”1. Đồng thời, Tổng Bí thư cũng nêu lên tính chất và nhiệm vụ của văn hóa mới Việt Nam: “Mục đích của những người làm văn hóa chúng ta là thắng địch, giữ nước, làm cho dân mạnh, dân tiến, dân tin, dân vui, là chống văn hóa ngu dịch, ngu dân của thực dân Pháp, khắc phục những tư tưởng phong kiến, lạc hậu trong văn hóa nước nhà, là xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam và góp phần văn hóa Việt Nam vào kho tàng văn hóa thế giới”2. Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” được thông qua tại Hội nghị được coi là một tác phẩm lý luận về đường lối, phương châm văn hóa của Đảng, đặt nền tảng cho mặt trận thống nhất văn hóa Việt Nam và xác định nhiệm vụ chân chính của những người làm công tác văn hóa trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc3.
Tháng 2/1951, tiếp nối tinh thần văn hóa kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội” do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng khẳng định phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân trong mặt trận văn hóa, phải làm cho các nhà văn hóa Việt Nam hoàn toàn thừa nhận và thực hành quan điểm: “Về lập trường, lấy nhân dân và trước hết là công, nông, binh làm gốc. Về thái độ, lấy chủ nghĩa ái quốc chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế làm gốc. Về chủ nghĩa chính trị, lấy chủ nghĩa dân chủ nhân dân Việt Nam và chủ nghĩa xã hội khoa học làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc... Về tác phong, lấy tập thể lao động và phê bình, tự phê bình làm gốc”4.
Đến tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mục tiêu của cuộc cách mạng văn hóa và kỹ thuật là làm cho nhân dân lao động đông đảo có trình độ văn hóa vững vàng, nắm được những

_____________

1, 2. Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.31, 75.
  1. Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.3, tr.294.
  2. ập, Sđd, t.12, tr.139.
hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật, và vận dụng được những hiểu biết đó vào công cuộc cải biến bộ mặt lạc hậu của văn hóa và kỹ thuật nước ta, xây dựng một nền văn hóa, khoa học và kỹ thuật hiện đại1. Về công tác văn hóa, văn nghệ, Đảng khẳng định: “Văn nghệ giữ một vị trí quan trọng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật... phải xây dựng một nền văn nghệ mới có tính chất dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa phong phú. Văn nghệ phải có tính đảng và tính nhân dân rõ rệt, phải thật sự đi vào cuộc sống và gắn chặt với cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân lao động đang đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và thống nhất Tổ quốc”2.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng, Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV (1968) xác định những quan điểm thống nhất về đường lối văn học, nghệ thuật: Văn nghệ là vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân, của Đảng trong cuộc đấu tranh để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra; văn nghệ ta phải thực sự là nền văn nghệ của nhân dân; văn nghệ ta phải có tính dân tộc, văn nghệ ta là văn nghệ của nhiều dân tộc ở ta; Văn nghệ phản ánh hiện thực khách quan một cách cao đẹp, góp phần cải tạo hiện thực đó theo một lý tưởng nhất định; mục đích của văn nghệ ta là giáo dục con người mới; tiếp thu có phê phán những tinh hoa văn nghệ dân tộc và những thành tựu tốt đẹp của văn nghệ thế giới xưa và nay; nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa để sáng tác và phê bình; với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chúng ta xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ cao đẹp nhất của loài người3.
Với đường lối văn hóa cách mạng đúng đắn, sáng tạo, kể từ khi Đề cương văn hóa của Đảng ra đời đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vùng dậy đứng lên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, đến kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm ác liệt (1945-1954), ở đâu có kháng chiến, ở đó có văn hóa, những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” đã tổ chức công tác tuyên truyền thành một nghệ thuật, đồng thời biết cách đưa nghệ thuật vào công tác tuyên truyền, phục vụ nhiệm vụ chính trị, “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”. Trong giai đoạn (1954-1975), nhiệm vụ của văn hóa

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.550, 555.
3. Xem Dẫn theo PGS.TS. Trần Thái Học: Quan điểm văn hóa, văn nghệ của đồng chí Trường Chinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.14.
tập trung vào đề tài Tổ quốc và nhân dân anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn của Đảng giai đoạn này đã được khẳng định bằng những thành tựu rực rỡ của nền văn học, nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa với cảm hứng ca ngợi công cuộc dựng xây cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vì hạnh phúc của nhân dân và phẩm giá của con người (1986 đến nay)
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước từng bước trăn trở, khảo nghiệm tìm đường đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới văn hóa. Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ: “Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người. Văn học, nghệ thuật phải không ngừng nâng cao tính Đảng và tính nhân dân, gắn bó với hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, nắm bắt nhạy bén hiện thực đang diễn biến phức tạp, sớm phát hiện và biểu dương cái mới, tạo nên những điển hình sống động, khẳng định những mầm non đang nảy sinh trong cuộc sống, mạnh dạn phê phán những mặt tiêu cực cản trở sự đổi mới của xã hội”1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(tháng 1/1993) “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”,

_____________

          1.                                                                                                       ập, Sđd, t.47, tr.812.
lần đầu đưa khái niệm: “Văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu trong xây dựng xã hội mới”1. Nghị quyết khẳng định: “Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc2. Đồng thời, Nghị quyết cũng nêu rõ sự nghiệp văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng, mọi biểu hiện hoặc mưu toan đối lập hay tách rời mối quan hệ giữa văn hóa, văn nghệ với đường lối chính trị và sự lãnh đạo của Đảng, đi chệch mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đều phải được kiên quyết phê phán, bác bỏ.
Trước thực trạng xã hội đang có những tác động tiêu cực đến văn hóa và sự phát triển bền vững của đất nước, đòi hỏi phải có sự đánh giá thấu đáo về văn hóa, có chủ trương phát huy thành tựu, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tháng 7/1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nghị quyết nêu lên năm quan điểm chỉ đạo văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó có đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã bổ sung và phát triển toàn diện, sâu sắc đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại từ quan niệm về văn hóa, vị thế, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển; từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.52, tr.407, 407-408.
Tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội IX của Đảng (4/2001), yêu cầu về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải “hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”1. Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006) khẳng định tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, đặc biệt, được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển, Đảng khẳng định xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Tháng 6/2014, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” đã cho thấy, sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng trong nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người, trong xác định phương hướng, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng, phát triển văn hóa, con người; cho thấy hệ thống quan điểm sau đã kế thừa được các quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa ở các thời kỳ trước đó, đồng thời đã tiếp thu những tinh hoa lý luận về văn hóa, văn nghệ của thế giới theo tinh thần đổi mới của Đảng. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -

_____________

          1.                                                                                                       ập, Sđd, t.60, tr.143.
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cuối nhiệm kỳ khóa XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4/6/2020, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đã xác định các nội dung, định hướng lớn: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”1.
Với tinh thần đó, cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh về phát triển văn hóa, con người, xuất phát từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, chỉ ra quá trình phát triển, hoàn thiện nhận thức của Đảng về văn hóa và con người, trong đó, văn hóa được coi là một trong bốn trụ cột chính sách, là nền tảng tinh thần, đồng thời cũng là nguồn lực nội sinh, động lực phát triển kinh tế - xã hội và “trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.
 
trường văn hóa lành mạnh”1. Việc nhận thức rõ và đầy đủ về vai trò, tính chất và mục đích của phát triển văn hóa là điều kiện để Đảng đưa ra những chủ trương, nhiệm vụ hợp lý, có hiệu quả về phát triển văn hóa, xây dựng con người đối với các khu vực, các lứa tuổi, các tầng lớp dân cư. Bàn về văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế nói riêng và với các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”2. Như vậy, văn hóa không chỉ được khẳng định là một trong bốn trụ cột chính sách quyết định của Đảng về xây dựng, phát triển đất nước, mà còn là sự bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, thể hiện tính nhân văn, ưu việt của chế độ với mục đích hướng tới con người, vì hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
*
                                                                                       *         *
Tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã mang lại luồng gió mới cho văn hóa Việt Nam với sự khai phóng về tư tưởng văn hóa cứu quốc, trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, khơi dậy khát vọng yêu nước, giành độc lập cho dân tộc của toàn thể nhân dân Việt Nam. Những giá trị nền tảng mang tính cương lĩnh ấy của Đề cương tạo ra sự phát triển nhận thức lý luận vượt bậc của Đảng về văn hóa, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong khởi nghĩa Tháng Tám 1945 thành công, kháng chiến thắng lợi, thống nhất đất nước. Tiếp nối mạch nguồn văn hóa cách mạng đó, trong hơn 35 năm đổi mới, đường lối văn hóa của Đảng ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc, khơi dậy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu mới, phong phú, đa dạng của đất nước.

_____________

1, 2. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.165.
TỪ “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
ĐẾN XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
ThS. VĂN THỊ THANH HƯƠNG*
TS. VĂN THỊ THANH MAI**
N
 
hận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa - coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng, kịp thời theo những định hướng lớn để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam theo đúng tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Cương lĩnh văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh soạn thảo và được công bố tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng, họp từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943 tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Đây là một trong những hội nghị quan trọng của Đảng để đề ra những chủ trương cụ thể, sát hợp với diễn biến mới của thời cuộc, nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng trong nước phát triển, mà một trong những nội dung được Hội nghị quan tâm chính là về văn hóa.

_____________

* Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.
** Ban Tuyên giáo Trung ương.
Trải qua một chặng đường hoạt động từ khi ra đời năm 1930 cho đến năm 1943, bên cạnh việc tập trung xây dựng lực lượng để thực hiện nhiệm vụ chính trị, thì trên lĩnh vực văn hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) cũng đã có những cuộc bút chiến về duy tâm hay duy vật, về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh... Song, đấu tranh trên mặt trận văn hóa chưa được đặt ngang hàng với các mặt trận đấu tranh khác như chính trị và kinh tế. Vì vậy, khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời và khẳng định rằng: “a. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1, thì cũng có nghĩa là Đảng đã thực sự đưa văn hóa trở thành một mặt trận.
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, từ việc phân tích một cách ngắn gọn, nhưng súc tích về lịch sử và tính chất của văn hóa Việt Nam, nhất là nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách thống trị của Nhật - Pháp, Đảng đã chỉ ra ba nguyên tắc cơ bản là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong xây dựng văn hóa Việt Nam. Theo đó, ba nguyên tắc được giải thích: Dân tộc hóa là (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập)2. Đại chúng hóa là (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng)3. Khoa học hóa là (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)4. Đồng thời, Đề cương cũng đã đặt và phân tích mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị; coi mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa); xác định rõ “không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”...
Có thể nói, Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, không chỉ đơn giản, ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu và dễ nhớ mà còn khái quát về con đường, phương pháp xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa của dân tộc, vì dân tộc, phục vụ dân tộc trên tinh thần chống lại cái tính

_____________

1, 2, 3, 4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.316, 319.
 
chất phong kiến, nô dịch và cả những trở lực như “xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”1, để cổ xúy cho tiến bộ, cho tính khoa học; đồng thời, cổ vũ, khích lệ quần chúng nhân dân tham gia vào tiến trình xây dựng nền văn hóa và thụ hưởng các giá trị văn hóa.
 Tuy nhiên, Đề cương cũng còn một số hạn chế như coi văn hóa chỉ bao gồm “tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”2; mới đề cao vai trò của kinh tế mà chưa chỉ ra sự tác động ngược lại của thành tố văn hóa đối với kinh tế và chính trị, như “nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc)”3 hay tính triệt để của cách mạng văn hóa như “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”4 và “những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”5...
Có thể thấy rằng, Đề cương về văn hóa Việt Nam chính là Cương lĩnh văn hóa khái quát của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bối cảnh cụ thể khi đó, Đề cương không chỉ thể hiện tầm nhìn, định hướng có tính chiến lược của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa gắn với các lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội, mà còn trở thành ngọn cờ để tập hợp những người có tư tưởng tiến bộ trong mặt trận văn hóa cứu quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng; làm cho “tinh thần cứu quốc” của văn hóa, sức mạnh nội sinh của văn hóa ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân, tạo thành một lực lượng hùng hậu trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, giữa bộn bề khó khăn, thử thách, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã tập trung giải quyết những nhiệm vụ cấp bách, trong đó chú trọng từng bước xây dựng nền văn hóa mới theo Đề cương về văn hóa Việt Nam. Đó chính là nền văn hóa không chỉ có nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là củng cố nền độc lập của Việt Nam và xây dựng cho đất nước “một nền văn hóa mới”, vì “văn hóa với chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có chính trị mới có văn hóa. Xưa kia, chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế

_____________

1, 2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.319, 316, 316, 319, 319.
không nảy sinh được. Nay nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với nguyện vọng của dân”1, mà còn cần phải có tính cách khoa học, tính đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại. Đó chính là nền văn hóa phải góp phần thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, gây dựng đời sống mới; trong đó, văn nghệ sĩ phải nỗ lực góp sức, vì “trước khi đi đến sự kiến thiết nước nhà, chúng ta còn phải qua một thời kỳ đấu tranh cực kỳ khổ sở. Giới văn hóa cũng phải cùng các giới đồng bào đi qua chặng đường ấy. Mong rằng anh em văn hóa đã cố gắng, xin cố gắng mãi lên!”2.
Nền văn hóa mới ấy cũng được thể hiện rõ trong bức thư Về nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước mà đồng chí Trường Chinh gửi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946. Cụ thể, nền văn hóa mới ấy không chỉ nêu rõ khẩu hiệu căn bản là “dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hoá” như Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nêu, mà còn xác định rõ nhiệm vụ của tất cả các nhà văn hóa Việt Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo là phải tích cực tham gia mặt trận dân tộc, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc; phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng nước, nhất là phải đứng trên lập trường chung là dân tộc và dân chủ mà phụng sự Tổ quốc. Vì thế, nhiệm vụ cụ thể của nền văn hóa mới ấy là không chỉ phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hóa cổ truyền của dân tộc; đồng thời, bài trừ những cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập và tấn công của văn hóa phản động, văn hóa thực dân; là học những cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Tàu, Pháp, mà còn phải giáo dục nhân dân, gây dựng đời sống mới, phát triển tư tưởng khoa học và học thuật tiến bộ, phát triển văn nghệ đại chúng... Đồng thời, còn phải góp phần phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc, nhân nguồn sức mạnh của dân tộc trên hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do...
Đặc biệt, trên tinh thần “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”3, việc gây dựng “nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài,

_____________

1, 3. Hồ Chí Minh về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.10, 11.
2. Báo Cứu quốc, số 61, ngày 8/10/1945.
tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”1, để mỗi người dân Việt Nam, “từ già đến trẻ, cả nam lẫn nữ, ai cũng đều hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình đáng được hưởng” đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức ngày 24/11/1946.
Xây dựng nền văn hóa mới theo “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Những định hướng trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam và nhất là trên tinh thần “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; “kiến quốc để kháng chiến”, “kháng chiến phải kiến quốc” không chỉ được thể hiện rõ trong chủ trương, đường lối của Đảng và hoạt động văn hóa của Chính phủ thời kỳ này, mà còn đều hướng vào việc phục vụ nhiệm vụ trung tâm, cần kíp, bức thiết là bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám, là phụng sự Tổ quốc, nhân dân.
Có thể thấy trong một khoảng thời gian không dài (từ ngày 2/9/1945 đến toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946), trước những thách thức to lớn, đe dọa sự tồn vong của nền dân chủ cộng hòa, Đảng (dù ngày 25/11/1945 đã rút vào hoạt động bí mật), trên cơ sở Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và tinh thần của Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946), Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã vừa kịp thời đề ra chủ trương, chính sách phù hợp, vừa triển khai những giải pháp, biện pháp đúng đắn để xây dựng đất nước một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, trong đó có xây dựng và phát triển nền văn hóa mới. Đó là thực hiện bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ; là sáp nhập Trường Viễn đông Bác cổ, nhà bảo tàng, thư viện và các học viện vào Bộ Quốc gia Giáo dục; quy định nhân dân được tự do tín ngưỡng, tôn trọng đền, chùa, lăng tẩm, nhà thờ và tất cả những nơi có tính chất tôn giáo; đổi tên các đường phố, các công viên bằng cách đặt tên các anh hùng hào kiệt đã từng chiến đấu cho nền độc lập và nền dân chủ cộng hòa, tên các danh nhân lịch sử, tên các địa phương có chiến tích lịch sử; là quy định Đông phương Bác cổ Học viện có nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi

_____________

1. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.3, tr.321.
Việt Nam, cấm hủy hoại đình, chùa, đền, miếu, các cổ vật, thành, quách, lăng, mộ, chiếu, sắc, văn bằng, v.v. có ích cho lịch sử; là thành lập Ban Trung ương vận động đời sống mới và triển khai xây dựng đời sống mới thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, góp phần từng bước đẩy lùi các tệ nạn cũ ra khỏi đời sống xã hội...
Đặc biệt, việc cho phép xuất bản báo chí, trong đó có các báo Cờ giải phóng, Sự thật, Cứu quốc, Tiền phong, Lao động, Quyết chiến... cũng như thành lập Đài Phát thanh quốc gia - Đài Tiếng nói Việt Nam/công cụ tuyên truyền giáo dục đắc lực, hiệu quả của Đảng và Chính phủ đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài; không chỉ tập trung tuyên truyền và đấu tranh cho nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị Tổng tuyển cử đầu tiên để bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, để thành lập Chính phủ chính thức và thông qua Hiến pháp năm 1946, mà còn góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chuẩn bị bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp và kiến quốc trong điều kiện đất nước có chiến tranh.
Những quyết sách đó không chỉ thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà trên thực tế, những biện pháp, giải pháp được thực thi của Chính phủ đã góp phần cổ vũ, tập hợp và động viên các tầng lớp nhân dân, nhất là giới văn nghệ sĩ sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, cũng nhờ những động thái quyết liệt, kịp thời của Chính phủ mà hoạt động của các cơ quan văn hóa, báo chí, xuất bản... thời kỳ này đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam ở những giai đoạn tiếp theo; đồng thời, góp phần nâng tầm con người Việt Nam, đất nước Việt Nam trên hành trình đấu tranh bảo vệ nền độc lập, xây dựng và phát triển đất nước.
Tiếp đó, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ngày càng gay go, ác liệt, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai được tổ chức ngày 16/7/1948 tại xã Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tại Hội nghị này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam. Đây là một văn bản rất quan trọng có tính Cương lĩnh được kế thừa và phát triển từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng. Trước khi Hội nghị khai mạc, ngày 15/7/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng và nhấn mạnh: “Chúng ta phải xây đắp một nền văn hóa kháng chiến, kiến quốc của toàn dân... Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến, kiến quốc cho hậu thế”1. Trong những năm sau đó, việc triển khai thực hiện đường lối, nhiệm vụ, phương châm công tác văn hóa; việc tập trung các hoạt động văn hóa, văn nghệ kháng chiến theo đúng tinh thần của Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai và của Hội nghị Cán bộ văn hóa lần thứ nhất (2/1949) đã không chỉ làm cho khẩu hiệu “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành hiện thực trong những năm kháng chiến, mà còn góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới.
Thực tế, việc triển khai xây dựng và phát triển nền văn hóa mới theo Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943), Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946) và Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948); trong Nghị quyết Đại hội II (1951) và Đại hội III (1960) trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã không chỉ làm cho hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin hiện diện trong đời sống văn hóa, tạo ra một xã hội dân chủ của những người dân làm chủ đất nước, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình; làm cho mỗi văn nghệ sĩ trở thành một người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng, mà còn góp phần hình thành, phát triển một đời sống mới, một lối sống mới xã hội chủ nghĩa; một phong trào văn nghệ của quần chúng phát triển mạnh mẽ; một nền văn học - nghệ thuật, báo chí, xuất bản... của cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Cùng với đó, từ ba nguyên tắc “dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng - văn hóa được triển khai cũng đã làm cho thế giới quan Mác - Lênin và những quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa không chỉ giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, mà còn kế thừa và phát huy được những yếu tố truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc anh em trong một nước Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Cũng vì thế, có thể khẳng định rằng, trong điều kiện phải tập trung cho nhiệm vụ

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.577.
kháng chiến và chiến tranh ngày càng lan rộng, nhưng nền văn hóa Việt Nam mới vẫn được gây dựng và ngày càng phát triển. Nền văn hóa đó không chỉ tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ, góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc trong những năm 1945-1954 và sự nghiệp vừa đấu tranh giải phóng miền Nam vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong những năm 1954-1975 đi đến thắng lợi, mà còn làm cho những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc, ý chí độc lập, tự cường và tinh thần yêu nước, đấu tranh vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi người dân Việt Nam hiển hiện trong thực tiễn được phản ánh sinh động trong các sáng tác văn học, nghệ thuật, báo chí...
Sau này, trong bối cảnh cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, tiến trình xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng được chú trọng, để văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh của sự phát triển. Trên thực tế, cùng với những tư tưởng, định hướng, nội dung được ghi rõ trong ba văn kiện đã nêu và trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng, thì các nghị quyết chuyên đề về văn hóa cũng được ban hành nhằm khắc phục những hạn chế và điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Đó là Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987của Bộ Chính trị khóa VI về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới” thể hiện những quan điểm đổi mới có nguyên tắc của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, có tác dụng thúc đẩy hoạt động sáng tạo nghệ thuật; Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu của nền văn hóa dân tộc, thể hiện khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mỹ” và “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; nhất là Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã chỉ rõ: “1- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; 2- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; 4- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; 5- Văn hóa là một mặt trận; xây dựng, phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng”...
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đều khẳng định yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, “thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”1 là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam kiên định xây dựng.
Đó cũng chính là “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; là để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đúng như Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nêu. Và đó cũng chính là “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”2 để nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.19.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế (...) nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”1 theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Có thể khẳng định rằng Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 dù ngắn ngọn và khái quát, nhưng thể hiện rõ tính chất một cương lĩnh văn hóa cách mạng; không chỉ định hướng về đường đi, cách thức xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới mà còn tạo cơ sở, nền tảng cũng như mở đường cho nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từng bước phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng và thực hiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.336.
 
GIÁ TRỊ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
VỀ VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỪ “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943*
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG**
K
 
ể từ khi ra đời đến nay (1943-2023), Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn giữ nguyên giá trị là bản tuyên ngôn, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong tám thập niên qua, nhiều định hướng quan trọng của Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong đó có quan điểm về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, đã được Đảng ta tiếp tục kế thừa, bổ sung phát triển trong giai đoạn đổi mới đất nước.
1. Nội dung giá trị quan điểm văn hóa trong phát triển kinh tế của “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của đất nước những năm 40 của thế kỷ XX vô cùng rối ren. Đó là lúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi gần tới kết thúc, Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương, thiết lập chế độ phátxít ở đây. Cách mạng Việt Nam lúc này không những đứng trước một tình thế vô cùng căng thẳng “ngàn cân treo sợi tóc”, mà còn gặp phải những thủ đoạn của phátxít hòng trói buộc văn hóa, thậm chí giết chết tiền đồ của nền văn hóa Việt Nam.

_____________

* Bài viết được bổ sung, phát triển từ nghiên cứu của tác giả “Quan điểm của Đảng về văn hóa trong phát triển kinh tế từ “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 (Tạp chí Cộng sản, 2019).
** Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Cuộc cách mạng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đang bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa là một tất yếu chính trị. Tuy nhiên, trong bối cảnh lúc bấy giờ, trước hết rất cần phải có một sự thay đổi cơ bản có tính lý luận về tư tưởng - văn hóa theo quan điểm mácxít. Đề cương văn hóa ra đời đáp ứng cơ bản yêu cầu đó của lịch sử: từ cách đặt vấn đề, đến những nội dung cụ thể về tính chất nền văn hóa Việt Nam hiện tại, nguy cơ và tiền đồ, mối quan hệ và vai trò của cách mạng văn hóa, nguyên tắc và những nhiệm vụ... Trong các giá trị của Đề cương, có quan điểm về mối quan hệ của văn hóa trong phát triển kinh tế. Nội dung giá trị của quan điểm này được thể hiện ở các phương diện sau đây:
Thứ nhất, khẳng định vị trí của văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế và chính trị trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trước hết, thể hiện ở cách đặt vấn đề của Đề cương văn hóa: 1- Văn hóa phải được nhận thức bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; 2Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; 3- Thái độ của Đảng đối với vấn đề văn hóa.
Văn hóa phải được quan niệm bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. Văn hóa phải được nhận thức như một hệ thống, trong đó giữa tư tưởng, học thuật và nghệ thuật; giữa văn hóa, kinh tế và chính trị; giữa các nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học... có mối quan hệ qua lại tất yếu với nhau, chi phối sự vận động và phát triển nền văn hóa Việt Nam và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ hai, chỉ ra bản chất mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế. Đề cương văn hóa khẳng định rằng, nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội đó (cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng). Trong mối quan hệ này, với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng thì văn hóa phản ánh hiện thực và do cơ sở kinh tế quyết định.
Trong mối quan hệ đó, văn hóa được nhận thức không những là cái phản ánh kinh tế, chịu sự quyết định của kinh tế, mà còn tác động quan trọng đến phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng, quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Thứ ba, khẳng định thái độ của Đảng đối với vấn đề văn hóa trong cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo. Điều này thể hiện ở quan điểm: a- Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) mà ở đó người cộng sản phải hoạt động; b- Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa; c- Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Sự lãnh đạo của Đảng ở cả ba mặt trận là tất yếu, và Đảng ta khẳng định, trong bối cảnh bấy giờ cuộc cách mạng văn hóa phải đi trước một bước. Đề cương văn hóa đã chỉ ra những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam, như tính chất và lịch sử, những nguy cơ trước mắt của văn hóa Việt Nam; vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, mục đích trước mắt và những công việc phải làm... Phải làm cách mạng văn hóa thì mới tạo cơ sở cho việc hoàn thành được cải tạo xã hội. Cuộc cải cách văn hóa có ý nghĩa dọn đường, là nền tảng nhận thức lý luận tư tưởng - văn hóa cho cách mạng về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, Đề cương văn hóa cũng khẳng định rằng, cách mạng văn hóa chỉ có thể hoàn thành khi cách mạng kinh tế và chính trị thành công. Sự phát triển của cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế là cơ sở để hoàn thành cách mạng văn hóa.
Trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, Đề cương văn hóa ra đời có ý nghĩa là một cuộc cách mạng tư tưởng - văn hóa theo quan điểm mácxít. Giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương văn hóa là cơ sở quan trọng để tập hợp, phát huy sức mạnh quần chúng và giới trí thức trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trong các giá trị đó, quan điểm về mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, văn hóa trong phát triển kinh tế là điểm đặc biệt.
2. Quan điểm văn hóa trong phát triển kinh tế của Đảng thời kỳ đổi mới
Từ những nét phác thảo của Đề cương văn hóa, quan điểm của Đảng đã có những bước phát triển mới trong nhận thức lý luận và thực tiễn về phát triển văn hóa và kinh tế trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, phát triển nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách văn hóa, xã hội.
Trước hết là phải khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách phát triển văn hóa, xã hội. Đảng khẳng định, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách văn hóa, xã hội, nhưng phát triển văn hóa, xã hội cũng chính nhằm phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội1. Quan điểm của Đảng đã chỉ rõ phải có sự “kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề quan trọng để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”2.
Hai là, phát triển nhận thức lý luận về sự thống nhất giữa phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội và con người.
Lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa VII, ngày 14/1/1993 “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, Đảng ta đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”3. So với nội dung được nêu trong Đề cương thì quan điểm của Đảng từ Nghị quyết này đã đưa ra những nội hàm cơ bản nhất về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, phát triển xã hội.
Đặc biệt đến Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, Đảng đã khẳng định sự thống nhất giữa phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội và con người: Mục tiêu của các lĩnh vực văn hóa - xã hội là nhằm chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội4. Mối quan hệ giữa phát triển văn hóa, xã hội và con người được khẳng định: chúng ta phải “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc ta, coi đó vừa là mục tiêu, vừa

_____________

  1. Xem Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX): Về văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.18-19.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.73.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, lưu hành nội bộ, tháng 2/1993, tr.51.
  4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lưu hành nội bộ, tháng 11/1994, tr.45-46.
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội... quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người...”1. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển văn hóa là cơ sở để phát triển, hoàn thiện nhân cách con người với những phẩm chất cụ thể. Phát triển con người với tư cách là chủ thể của phát triển văn hóa và kinh tế.
Ba là, quan điểm về bảo đảm gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa là điều kiện quyết định sự phát triển.
Định hướng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa được xác định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”2. Mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội và con người được nhận thức: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”3.
Cùng với quan điểm làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) lần đầu tiên khẳng định vai trò của văn hóa: “Văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển”. Bước phát triển mới này là định hướng cơ bản cho phát triển văn hóa để phát triển bền vững đất nước, nếu không văn hóa sẽ chỉ là giải trí, hoặc không phát triển văn hóa đúng sẽ rơi vào khủng hoảng xã hội.
Về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, có sự phát triển mới trong nhận thức lý luận và thực tiễn. Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.10-11.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.390.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.106.
Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, đã khẳng định: “Các phương tiện, phương thức sản xuất, trình diễn, sử dụng, truyền bá sản phẩm văn học, nghệ thuật phát triển khá mạnh đã đưa được nhiều tác phẩm đến với công chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân. Đã hình thành một thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật ở trong nước; đưa các sản phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng ra nước ngoài, góp phần khẳng định nước ta là địa chỉ giao lưu văn hóa quốc tế trong thời kỳ mới”1. Đây chính là định hướng quan trọng để xây dựng quan điểm về phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam những năm tiếp theo. Trong quá trình đó, “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”2.
So với những nội dung được đề ra trong Đề cương đến Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, quan điểm này đã phát triển ở một tầm cao mới: phát triển văn hóa và con người hướng đến mục tiêu chung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”3.
Bốn là, bổ sung nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người để phát triển bền vững đất nước. Xây dựng văn hóa trong lĩnh vực chính trị và kinh tế được Đảng ta xác định là những nội dung cơ bản của nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới4. Đó là:

_____________

  1. “Nghị quyết của Bộ Chính trị về Phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”, Thông tin Văn hóa và Phát triển, số 17, 2008.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.40.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.46-47.
  4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr.53.
  • Về văn hóa trong chính trị, phải chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh..., đồng thời thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ... xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
  • Về văn hóa trong kinh tế, phải thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Phát triển ngành công nghiệp văn hóa mới có thể đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá trị văn hóa đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa.
  • Bảo đảm “gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội”. Quan điểm này phải trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển, phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cùng với sự đầu tư của Nhà nước và sự tham gia của người dân1.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, đây vẫn là một trong những vấn đề cơ bản của đất nước giai đoạn mới. Muốn phát triển bền vững đất nước, không chỉ văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, mà phải xây dựng và phát triển văn hóa, con người - tạo sức mạnh nội sinh của sự phát triển bền vững. Không chạy theo sức ép tăng trưởng kinh tế mà coi thường, hạ thấp vai trò, vị trí của phát triển văn hóa và con người.

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.124.
3. Một số định hướng bổ sung, phát triển nhận thức lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế
Thực tế cho thấy trong nhận thức lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế, phát triển xã hội, con người thời kỳ đổi mới, chúng ta chưa lường hết, chưa bao quát hết phạm vi ngày càng rộng lớn, đa dạng, phức tạp của văn hóa, của phát triển văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Trong một số định hướng về văn hóa và phát triển còn bộc lộ ít nhiều lúng túng, mang tính giải quyết “ứng phó tình thế” trước một số biến động, biến chuyển mới, các vấn đề văn hóa, xã hội nảy sinh trong đời sống. Việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế, với vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có hiệu quả. Trên thực tế đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp trầm trọng; tác động tiêu cực của văn hóa phẩm độc hại đến việc hình thành nhân cách thanh, thiếu niên; tình trạng người dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả văn hóa, xã hội của đổi mới.
Đối với những vấn đề mới đặt ra cho phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường, như phát triển và quản lý công nghiệp văn hóa, thị trường văn hóa phẩm, xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong giai đoạn mới hiện nay... về lý luận, chúng ta chủ yếu mới dừng lại ở định hướng cơ bản, mang tính phác thảo, chung chung. Vì vậy, tư duy lý luận về phát triển văn hóa, xã hội, con người, phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế có biểu hiện chưa theo kịp, chưa phù hợp, chưa chủ động đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Một số nghiên cứu cho rằng, đối với những vấn đề mới trên, trong nhận thức lý luận của chúng ta chưa có lý giải thật sự khoa học, mang tính thuyết phục. Ví dụ, các luận giải trong định hướng về chức năng điều tiết, về phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa; văn hóa và phát triển; văn hóa trong chính trị và kinh tế; khai thác sức mạnh nội sinh của văn hóa trong phát triển bền vững; những vấn đề văn hóa trong điều kiện bùng nổ thông tin; văn hóa nhân cách, đạo đức, lối sống. Phát triển văn hóa dân tộc đang diễn ra trong bối cảnh mới, với những thời cơ và thách thức mới, cần có những định hướng mới về phát triển văn hóa và kinh tế trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện.
Định hướng phát triển nhận thức lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế hiện nay, cần chú ý:
  1. Phát triển tư duy lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế phải giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế - xã hội với phát triển con người. Phát triển kinh tế phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
  2. Phát triển tư duy lý luận về văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội cần chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị: chú trọng xây dựng văn hóa trong Đảng, thể hiện nhân cách, trình độ và năng lực lãnh đạo, văn hóa tổ chức. Liên quan đến văn hóa trong chính trị theo nghĩa rộng là văn hóa dân chủ, quyền văn hóa.
  3. Phát triển tư duy lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội hướng đến mục đích xây dựng con người Việt Nam với tư cách là chủ thể sáng tạo, nhất là văn hóa trong thanh, thiếu niên. Xây dựng và phát triển các giá trị văn hóa gia đình, làm nền tảng đầu tiên, quan trọng cho sự phát triển con người một cách toàn diện.
  4. Phát triển tư duy lý luận về văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội cần quan tâm phát triển các giá trị văn hóa đô thị và văn hóa làng, xã nông thôn trong quá trình phát triển, nhất là trong giai đoạn chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới.
  5. Phát triển tư duy lý luận về định hướng phát triển các lĩnh vực văn hóa: phát triển giáo dục - đào tạo, liên quan đến nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển văn học - nghệ thuật đáp ứng nhu cầu lành mạnh của nhân dân; phát triển thông tin đại chúng đi đôi với quản lý tốt; phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
  6. Thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Bởi đây là ngành có khả năng hội tụ được sức mạnh của kinh tế và văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa là thời cơ để Việt Nam hội nhập quốc tế, chủ động tham gia phát triển kinh tế tri thức gắn với khoa học - công nghệ hiện đại, phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế trong văn hóa hiện nay.
  7. Định hướng nhìn từ phương diện chính sách là vấn đề cần được ưu tiên đặc biệt, để khắc phục sự mất cân đối, không đồng bộ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, gây cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước hết, phải đổi mới về nhận thức, thể chế, thay đổi quan niệm về xây dựng các giải pháp; nhất là tập trung thực hiện các giải pháp mạnh để giải quyết những vấn đề đang bức xúc: cải cách nền giáo dục để đáp ứng nguồn nhân lực cho phát triển; xác lập mục tiêu văn hóa gắn với mục tiêu kinh tế trong đổi mới; văn hóa trong cải cách nền hành chính, văn hóa đạo đức, lối sống (nhất là chống tham nhũng); làm cho văn hóa thấm sâu vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho người lao động (nhất là vùng khu công nghiệp và nông thôn, miền núi); văn hóa trong an sinh của đời sống và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra; bản lĩnh trong kế thừa giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa của thời đại...
Trong quá trình xây dựng và thực hiện các giải pháp phát triển văn hóa, phải chú ý nhiều hơn đến những lĩnh vực văn hóa, những hình thức văn hóa trực tiếp tác động đến kinh tế, để khắc phục sự chưa đồng bộ của phát triển, như văn hóa giáo dục, văn hóa khoa học - công nghệ, văn hóa kinh doanh, văn hóa pháp lý, văn hóa hành chính, văn hóa đạo đức nghề nghiệp, văn hóa giao thông, văn hóa môi trường...
*
                                                                                       *         *
Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã thực sự đem lại một bước tiến mới có giá trị triết luận trong quan điểm của Đảng ta so với các phương pháp tiếp cận đương thời về vị trí, tiền đồ của nền văn hóa dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là thành tựu của công cuộc đổi mới trong hơn 35 năm qua đã minh chứng rằng, những quan điểm của Đảng trong Đề cương văn hóa vẫn là những giá trị nền tảng cốt lõi, cội nguồn và động lực phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục bổ sung, phát triển các giá trị của Đề cương văn hóa để phát triển nền văn hóa dân tộc là đòi hỏi khách quan. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ khẳng định phải “đúc kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam” mà còn nhấn mạnh khẩn trương “nghiên cứu xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam thời kỳ mới”1. Trước những thời cơ, thách thức và yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.143.
 
KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
ThS. ĐẶNG THU HƯỜNG*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là văn kiện Đảng quan trọng đối với sự phát triển văn hóa của đất nước. Đây là văn kiện đầu tiên Đảng ta trình bày rõ ràng những quan điểm cơ bản của mình về văn hóa, về vị trí của văn hóa trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc, về sự tất yếu phải tiến hành cách mạng tư tưởng - văn hóa. Đến nay các giá trị cốt lõi đó vẫn được giữ nguyên và khẳng định sức sống của một văn kiện mang tầm vóc cương lĩnh trong sự kế thừa, phát huy tác dụng đối với công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
1. Những giá trị cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ngắn gọn, xúc tích nhưng vẫn bảo đảm hệ thống các quan niệm, phạm trù, các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc; được trình bày làm 5 phần: Phần I: Cách đặt vấn đề; Phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; Phần III: Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; Phần IV: Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam; Phần V: Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa mácxít Việt Nam. Đề cương văn hóa chứa đựng những giá trị cốt lõi, xứng tầm là tuyên ngôn, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa có thể đúc kết như sau:

_____________

* Khoa Văn hóa và Phát triển - Học viện Chính trị khu vực I.
Thứ nhất, Đề cương đã đặt nền tảng lý luận cho sự phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam, góp phần thống nhất nhận thức, tư tưởng, định hướng học thuật trong lĩnh vực văn hóa, xác định đường lối cho văn hóa, văn nghệ; xác lập những vấn đề căn cốt về quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng; chức năng của văn hóa, nghệ thuật đối với bối ảnh lịch sử cụ thể; nguyên tắc và cách thức đấu tranh cho một nền văn hóa độc lập, tự chủ, khoa học, đại chúng,... Do vậy, dù chỉ là bản đề cương nhưng Đề cương văn hóa (1943) vừa có ý nghĩa thời sự, cấp bách, đáp ứng nhu cầu cách mạng thời điểm đó, vừa là kim chỉ nam định hướng cho tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, bản Đề cương khẳng định vai trò lãnh đạo không thể thay thế của Đảng Cộng sản (lúc này là Đảng Cộng sản Đông Dương) đối với công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới: “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện phát triển”1; “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do           Đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo2. Bối cảnh đó ở Việt Nam có sự tồn tại song song của nhiều đảng khác nhau như: Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng..., nhưng không đủ sức tập hợp toàn dân và lãnh đạo cách mạng. Nhiều chí sĩ yêu nước kiệt xuất đã tìm mọi con đường khác nhau để giải phóng dân tộc và phát triển văn hóa như Phan Đình Phùng với phong trào Cần Vương; Hoàng Hoa Thám với khởi nghĩa Yên Thế; Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng với phong trào Duy Tân,... nhưng đều thất bại. Thành công rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể đảm đương được sứ mệnh dẫn dắt toàn thể dân tộc trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Thứ ba, Đề cương đã đưa ra dự báo chính xác, tầm nhìn vượt thời gian khi khẳng định tiền đồ, tương lai của văn hóa Việt Nam: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới3. Điều này được chứng minh khi trang sử vàng chói lọi của lịch sử Việt Nam mở ra sau chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám, đồng thời mở ra một nhà nước độc lập

_____________

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
và tương lai về nền văn hóa Việt Nam thực sự được thăng hoa, xác lập những giá trị của mình.
Thứ tư, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 có sức lôi cuốn, quy tụ, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức, văn nghệ sĩ tích cực tham gia cách mạng với vai trò là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, từ đó khởi tạo và xây dựng nền văn hóa mới.
Thứ năm, Đề cương đã xác lập rất chuẩn xác ba nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Đây là những giá trị thực tiễn hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với lĩnh vực văn hóa. Trong sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, các nguyên tắc này được coi như “kim chỉ nam” cho nền văn hóa độc lập, tự cường, vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Đề cương về văn hóa Việt Nam tròn 80 năm ra đời, đã thực sự đem lại một bước tiến mới về chất so với phương pháp tiếp cận đương thời về văn hóa dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, với những thành tựu của công cuộc đổi mới trong hơn 36 năm qua đã minh chứng rằng, những quan điểm của Đề cương vẫn còn giá trị định hướng cho phát triển văn hóa không chỉ đến ngày nay mà còn nhiều năm về sau.
2. Kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã thể hiện một nhãn quan chiến lược văn hóa sâu sắc, sự sắc bén về tư duy lý luận, khả năng đúc kết thực tiễn và dự báo tương lai chính xác, tạo nên sức sống trường tồn của những giá trị cốt lõi nêu trên. Trong tiến trình phát triển của đất nước, Đảng đã kế thừa và phát huy những giá trị đó một cách tối ưu. Sự kế thừa và phát huy những giá trị cốt lõi của Đề cương được tập trung trong một số nội dung sau:
Một là, hiện nay Đảng luôn chú trọng việc định hướng phát triển văn hóa, xác định vị trí, vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.
Trên tinh thần đó, Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, coi văn hóa là một trong ba bộ phận (kinh tế, xây dựng Đảng, văn hóa) trụ cột cho sự phát triển bền vững của đất nước và chủ trương phát triển văn hóa sâu, rộng, đồng bộ với phát triển kinh tế xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội1. Nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế, chính trị đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Đại hội XII năm 2016 của Đảng tiếp tục nhất quán đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước với mục tiêu: “Làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”“2. Trong đó, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển.
Năm 2021 diễn ra Đại hội XIII của Đảng, đây là cột mốc quan trọng. Với chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng chú trọng khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:”Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”3. Như vậy, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa còn là sức mạnh nội sinh phát triển bền vững đất nước, đóng vai trò là “hệ điều tiết” trong sự vận động mọi mặt của đời sống.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.216.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.99.
Như vậy, kế thừa và phát huy từ giá trị cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng luôn xác vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, đưa ra định hướng phát triển văn hóa, nhấn mạnh vai trò của văn hóa ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn vong và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhất quán tư duy văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước.
Hai là, đối với lĩnh vực văn hóa và sự phát triển của đất nước, việc xác lập ba nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóakhoa học hóa trong Đề cương văn hóa là một đóng góp vô cùng to lớn cho sự phát triển của dân tộc. Các nguyên tác này được Đảng kế thừa và phát triển một cách triệt để trong các quan điểm chỉ đạo và trong thực tiễn hành động.
Nguyên tắc dân tộc hóa theo tinh thần của Đề cương là nhằm chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, nghĩa là xây dựng một nền văn hóa độc lập, tự cường, mang đậm bản sắc dân tộc, bảo vệ và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, di sản văn hóa của cha ông, chống lại sự lai căng, đua đòi, dập khuôn văn hóa phương Tây, đồng thời chống chia rẽ, phân tán để tập hợp, thống nhất các lực lượng văn hóa trong cả nước. Hiện nay, đây vẫn là nguyên tắc vô cùng quan thiết với văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện tại với chủ trương xây dựng nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc”. Khi thế giới hội nhập ở mức độ cao thì nguy cơ về việc tiếp biến văn hóa quá đà, hay đồng hóa, thậm chí việc “xâm lăng” văn hóa có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì việc đề cao nguyên tắc dân tộc (nghĩa là văn hóa dân tộc) sẽ là thành trì vững chắc để bảo vệ và phát triển văn hóa, phát triển đất nước; đồng thời còn “thu nạp”, “thâu hóa” tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Điều này được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII vì “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” cho thấy, dân tộc hóa phải dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc được kết tinh trong ý thức dân tộc, tâm hồn dân tộc, tính cách dân tộc, di sản văn hóa dân tộc... Bản sắc dân tộc sẽ bảo đảm sự trưởng tồn của dân tộc, tạo nên sức mạnh nội sinh để đứng vững trong cơn lốc toàn cầu hóa, tạo sức đề kháng và đối trọng chống lại sự xâm lăng văn hóa.
Với nguyên tắc khoa học hóa, Đề cương nhấn mạnh sự phát triển văn hóa theo chiều hướng khoa học, tiến bộ, loại bỏ những gì làm cho văn hóa phản khoa học, phản tiến bộ. Cụ thể là lấy khoa học làm điểm tựa đấu tranh chống lại mọi hình thức lạc hậu, thần bí, phản khoa học, cản trở sự phát triển của văn hóa. Khoa học hóa cũng là đặt mọi vấn đề của văn hóa trên cơ sở khoa học, đề cao tư tưởng, học thuật, phát triển các ngành khoa học. Cao hơn nữa là dùng khoa học làm vũ khí đấu tranh, phản bác những quan điểm, nhận thức, nhận định sai trái về văn hóa.
Đại chúng hóa theo tinh thần của Đề cương là chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa rời quần chúng. Đây cũng là một nguyên tắc vô cùng mới và tiến bộ, lần đầu tiên quần chúng nhân dân lao động được xác định vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của văn hóa. Nguyên tắc này góp phần trả lời cho câu hỏi “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” trong bối cảnh đó và khẳng định rằng văn hóa, nghệ thuật phải được phục vụ, hướng tới quần chúng là quảng đại quần chúng, là nhân dân. Đến nay, Đảng ta không chỉ kế thừa mà còn phát huy lên một tầm cao mới: đại chúng hóa không chỉ phát triển văn hóa đại chúng mà khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo và vận động phát triển văn hóa thuộc về đông đảo quần chúng nhân dân. Nền văn hóa Việt Nam chỉ có thể “đậm đà bản sắc dân tộc” khi nó được nuôi dưỡng trong môi trường đại quần chúng, những tinh hoa văn hóa đã được tích lũy từ truyền thống dân tộc, từ suối nguồn của văn học dân gian. Đại chúng hóa văn hóa giúp nâng cao trình độ dân trí, vì vậy việc chú trọng phát triển văn hóa tinh hoa, văn hóa bác học cũng là một yêu cầu cấp thiết như Đảng ta đã nhận định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”.
Cho đến hôm nay, không ai có thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đặc biệt là vai trò tiên phong mở đường, đặt nền móng lý luận cho công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Tinh thần chung của bản Đề cương vẫn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt các văn kiện sau này của Đảng ta về văn hóa, văn nghệ, góp phần định hướng và dẫn đạo nền văn hóa Việt Nam vươn tới những tầm cao mới.
*
*        *
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ra đời trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và khẳng định được sự cần thiết, tất yếu, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Những giá trị cốt lõi của Đề cương về nguyên tắc Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa; tính chất “dân tộc”, “khoa học”, “đại chúng” của văn hóa Việt Nam thể hiện quan điểm tiến bộ về văn hóa của Đảng; việc kế thừa và phát huy các giá trị đó đã được thể hiện qua những quan điểm, chủ trương của Đảng trong suốt 80 năm qua. Để tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới, các giá trị đó cần được tiếp tục “gạn đục khơi trong”, kế thừa và phát huy. Đó chính là một trong những yếu tố sẽ góp phần đưa văn hóa Việt Nam sánh vai với các nền văn hóa, văn minh tiến bộ trên thế giới.
 
KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
GS.TS. TỪ THỊ LOAN*
C
 
ách đây 80 năm, vào tháng 2/1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo đã được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên)1. Bản Đề cương đã đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam khi đó, đặt nền móng căn bản về lý luận và thực tiễn, đồng thời định hướng lâu dài cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Trải qua 80 năm triển khai và kiểm nghiệm trong thực tế, ngày nay chúng ta có điều kiện nhìn lại để khẳng định những giá trị trường tồn của bản Đề cương, đồng thời có những bổ sung, mở rộng, phát triển phù hợp hơn với bối cảnh mới.
Bản Đề cương ra đời trong tình thế nước sôi lửa bỏng của cuộc cách mạng sinh tử giải phóng dân tộc. Đề cương đã trình bày một cách hệ thống các khái niệm, phạm trù, quan điểm chỉ đạo, mục đích, nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa Việt Nam, những nhiệm vụ cần kíp để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Các nội dung cơ bản nêu trong 5 phần của Đề cương2 nhìn chung đều có tính

_____________

* Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
  1. Nay là Đông Anh, Hà Nội.
  2. “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943”, in trong Văn hóa Việt Nam một chặng đường, Nxb. Văn hóa - Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 1994. Đề cương gồm 5 phần:
Phần I: Cách đặt vấn đề.
Phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam.
Phần III: Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp.
Phần IV: Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam.
Phần V: Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít ở Việt Nam.
khái quát rộng, nắm bắt sâu tình hình lý luận và thực tiễn văn hóa Việt Nam khi đó.
Trong suốt 80 năm qua, Đảng ta luôn quán triệt tinh thần chính của bản Đề cương, đồng thời có sự điều chỉnh, bổ sung, vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng. Bản thân Đề cương cũng không có tham vọng làm một thứ “bảo bối” bất di bất dịch, thể hiện qua các diễn đạt như: ba nguyên tắc vận động “trong giai đoạn này”, hai “ức thuyết” về tiền đồ văn hóa Việt Nam, những phương pháp cải cách “đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”, Đề cương về văn hóa Việt Nam “năm 1943”, v.v..
1. Những giá trị cốt lõi của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương đã thể hiện một tầm nhìn xa, tư duy lý luận sắc bén, sự đúc kết từ thực tiễn sâu sát của một đảng non trẻ mới có 12 năm kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng. Tuy nhiên cho đến nay, nhiều luận điểm, nguyên tắc, đúc kết của bản Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn có thể kế thừa, phát huy tác dụng trong công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Trước hết, bản Đề cương đã đặt nền móng lý luận căn bản cho nhiều vấn đề văn hóa Việt Nam, từ đó góp phần thống nhất nhận thức, tư tưởng, định hướng học thuật cho những người làm văn hóa, nghệ thuật. Đó trước hết là những vấn đề căn cốt như: quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng; chức năng của văn hóa, nghệ thuật (nghệ thuật vị nhân sinh); sự ưu thắng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; nguyên tắc và cách thức đấu tranh cho một nền văn hóa độc lập, tự chủ, khoa học, đại chúng, tiến bộ,...
Có thể nói, bản Đề cương mang đầy đủ ý nghĩa của một Cương lĩnh về văn hóa, bổ sung cho Cương lĩnh chính trị của Đảng (Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930) phục vụ đắc lực cho cuộc cách mạng “phản đế, phản phong” của dân tộc. Bản Đề cương đã góp phần thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, đặt nền móng cho đường lối văn hóa, văn nghệ sau này, làm kim chỉ nam trong xây dựng nền văn hóa mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cho các chặng đường cách mạng tiếp theo.
Thứ hai, bản Đề cương đã khẳng định vai trò không thể thay thế của Đảng Cộng sản (khi đó là Đảng Cộng sản Đông Dương) đối với công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới: “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện phát triển”1. “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”2.
Tại thời điểm đó cũng có một loạt chính đảng hoạt động..., nhưng đều không đủ sức tập hợp toàn dân và lãnh đạo cách mạng. Nhiều chí sĩ yêu nước kiệt xuất đã tìm mọi con đường khác nhau để giải phóng dân tộc và phát triển văn hóa như Phan Đình Phùng với phong trào Cần Vương; Hoàng Hoa Thám với khởi nghĩa Yên Thế; Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng với phong trào Duy Tân,... nhưng đều thất bại3. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể đảm đương được sứ mệnh này, đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và dẫn dắt toàn thể dân tộc trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Thứ ba, Đề cương đã thể hiện khả năng dự báo chính xác, tầm nhìn vượt thời gian khi khẳng định tiền đồ, tương lai của văn hóa Việt Nam là: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”4. Điều đó sau này đã trở thành hiện thực, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khai sinh ra một nhà nước độc lập và nền văn hóa Việt Nam thực sự được tự do và cất cánh.
Thứ tư, với những nội dung, quan điểm, vấn đề quan thiết như vậy, bản Đề cương đã có sức lôi cuốn, quy tụ, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là giới trí thức, văn nghệ sĩ tích cực tham gia cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới. Nhiều hồi ký, phát biểu, suy ngẫm của giới văn nghệ sĩ đều cho thấy sự hấp dẫn, sức thuyết phục của bản Đề cương đã giúp họ khai mở nhận thức, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc...

_____________

1, 2, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21, 22, 19-20.
3. Từ Thị Loan: “Quan điểm cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo và ba nguyên tắc lớn trong Đề cương văn hóa Việt Nam”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học 70 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Hà Nội, ngày 18/9/2013.
Thứ năm, Đề cương có giá trị thực tiễn quan trọng ở chỗ đã xác lập rất đúng đắn ba nguyên tắc cơ bản của cuộc vận động văn hóa Việt Nam là: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Bên cạnh đó, bản Đề cương còn chỉ rõ các nhiệm vụ, cách thức, giải pháp để đạt được các mục tiêu đó. Thực tế đã chứng minh, ba nguyên tắc trên có tác dụng to lớn biến nền văn hóa Việt Nam từ một nền văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa phong kiến, thực dân, nô dịch trở thành một nền văn hóa độc lập, tự cường, vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể nói, ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa vừa có tính thời sự, vừa có ý nghĩa lâu dài, trở thành những định hướng lớn cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong nhiều giai đoạn cách mạng về sau. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết, tác giả xin tập trung làm rõ những giá trị cốt lõi của ba nguyên tắc trên, đồng thời chỉ ra sự vận dụng, điều chỉnh, bổ sung, phát triển của Đảng ta qua các thời kỳ cũng như trong bối cảnh hiện nay.
  1. Kế thừa và phát triển ba nguyên tắc lớn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
2.1. Nguyên tắc “dân tộc hóa”
Dân tộc hóa theo tinh thần của Đề cương là nhằm “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”1. Cụ thể hơn, đó chính là chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái hóa, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân.
Tại thời điểm đó, nguyên tắc dân tộc hóa với cách hiểu như vậy là hoàn toàn đúng đắn và xác đáng. Khát khao có một nền văn hóa độc lập đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, trước hết là trong nỗ lực chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến phương Bắc. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, văn hóa Việt Nam không tránh khỏi chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Nhận xét về vấn đề này, Tổng Bí thư Trường Chinh từng viết: “Ông cha ta, hàng chục thế kỷ học Tàu, viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu; pháp luật mô phỏng Tàu; học triết học Tàu, theo lễ giáo Tàu, về tín ngưỡng theo cả Tàu và Ấn; khoa học độc

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.23-24.
lập không tiến; nghệ thuật âm nhạc kém phát triển; lối ăn mặc ở hủ lậu, bảo thủ, thiếu khoa học”1.
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chủ trương thực hiện chính sách văn hóa nô dịch, coi rẻ văn hóa bản xứ, cho nước Pháp là “Mẫu quốc” giúp “khai hóa văn minh” cho dân tộc An Nam ngu muội, tăm tối. Chúng gieo rắc trong giới trí thức Tây học tư tưởng phục Pháp, sùng Pháp, đồng thời kìm hãm dân chúng trong vòng ngu tối để dễ bề cai trị. Một mặt, thực dân Pháp ra sức đàn áp các nhà văn hóa cách mạng, dân chủ, chống phát xít, kiểm soát ngặt nghèo các tài liệu văn hóa có tư tưởng mới. Mặt khác, chúng tiến hành chính sách nhồi sọ, mua chuộc các văn nghệ sĩ có tài, ru ngủ thanh niên bằng các phong trào “vui vẻ, trẻ trung”, các cuộc thi thể thao, sắc đẹp, khuyến khích ăn chơi thời thượng, đẩy thế hệ trẻ vào con đường trụy lạc bằng thuốc phiện, rượu cồn. Chưa bao giờ ở Việt Nam các tiệm hút, nhà thổ, sàn khiêu vũ mọc lên nhan nhản như thời đó. Văn học, nghệ thuật chìm đắm trong xu hướng hưởng lạc, đồi trụy bên cạnh các thể loại kiếm hiệp, trinh thám rẻ tiền...
Về phía phát xít Nhật, chúng tiến hành chính sách tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á, coi người Nhật là cứu tinh của giống da vàng, đề cao văn hóa Nhật Bản “chiếu rọi những tia sáng văn minh, tiến bộ cho giống nòi Đại Đông Á”... Tựu trung, tất cả đều là thái độ đề cao văn hóa ngoại lai, hạ thấp văn hóa Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, nguyên tắc dân tộc hóa là cực kỳ cần thiết và đúng đắn để hướng tới xây dựng một nền văn hóa độc lập, tự chủ. Dân tộc hóa trước hết là đấu tranh về tiếng nói, chữ viết, thống nhất làm giàu tiếng nói dân tộc, “ấn định mẹo văn ta”, cải cách chữ Quốc ngữ. Dân tộc hóa còn là kiên quyết bảo vệ, giữ gìn tinh hoa văn hóa dân tộc, di sản văn hóa của cha ông. Dân tộc hóa cũng là chống lại những lai căng, đua đòi, bắt chước văn hóa phương Tây. Dân tộc hóa sẽ góp phần chống chia rẽ, phân tán để tập hợp, thống nhất các lực lượng văn hóa trong cả nước...

_____________

1. Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, dẫn theo Nguyễn Thành Vinh: “Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc, hướng tiếp cận từ Đề cương văn hóa Việt Nam”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học 70 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Tài liệu Hội thảo khoa học, Hà Nội, ngày 18/9/2013.
Tại thời điểm đó, nguyên tắc dân tộc hóa đã có tác dụng thức tỉnh, uốn nắn các quan điểm lệch lạc của giới văn nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa như nhóm Tri Tân, Thanh Nghị, Xuân Thu nhã tập. Nhóm Tri Tân theo khuynh hướng bảo thủ, nệ cổ, nên sa vào chủ nghĩa dân tộc ích kỷ, thủ cựu, gàn dở. Nhóm Thanh Nghị tuy có tư tưởng dân tộc, nhưng lại mang tính chất cải lương tư sản. Nhóm Xuân Thu nhã tập xa rời quần chúng, thoát ly thực tế, trốn vào “tháp ngà”, “nghệ thuật tắc tị”...
Từ khi đất nước giành được độc lập, trong suốt những năm kháng chiến bảo vệ Tổ quốc cũng như hòa bình xây dựng đất nước, nguyên tắc dân tộc hóa đã góp phần tập hợp, đoàn kết giới trí thức, văn nghệ sĩ cũng như quảng đại quần chúng xây dựng một nền văn hóa mới mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại mọi ảnh hưởng, tàn dư của văn hóa phong kiến, tư sản, nô dịch, tạo nên diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam. Đã có biết bao tác phẩm văn học, nghệ thuật, nghiên cứu, phê bình, báo chí, xuất bản giàu bản sắc dân tộc được sáng tạo. Văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng thể hiện đậm nét và có sức lan tỏa ra thế giới.
Cho đến nay, có thể nói, nguyên tắc dân tộc hóa vẫn giữ nguyên giá trị và phát huy tác dụng đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, nội hàm của nó cần được hiểu rộng và sâu hơn, đa chiều và đa nghĩa hơn, cụ thể như sau:
Một là, bên cạnh việc đề cao dân tộc hóa với ý nghĩa “chống mọi sự nô dịch, đồng hóa của văn hóa bên ngoài”, hiện nay dân tộc hóa còn cần phải hiểu là nền văn hóa có khả năng tiếp thu, “Việt hóa” những ảnh hưởng tốt đẹp của văn hóa bên ngoài, bồi bổ, làm giàu và nâng tầm cho văn hóa dân tộc. Đây chính là quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, biến các giá trị đó thành “của mình”, qua lăng kính dân tộc mình, có chọn lọc và kiểm nghiệm. Như vậy, khái niệm này không chỉ “chống” các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài, mà còn phải “thu nạp”, “thâu hóa” những ảnh hưởng tốt đẹp, học tập và nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam. Sự điều chỉnh, bổ sung này đã được Đảng ta thể hiện rất rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII - bản Cương lĩnh thứ hai về văn hóa - trong quan điểm “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và được làm sâu sắc, đầy đủ hơn trong các văn kiện tiếp theo về văn hóa, văn nghệ.
Hai là, dân tộc hóa với ý nghĩa “chống văn hóa phong kiến thoái hóa” không có nghĩa là phủ định sạch trơn, đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ. Những năm đầu trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, do chủ quan, nóng vội và thiếu kinh nghiệm, chúng ta cũng đã có một số thái độ quá khích, dẫn tới những ứng xử cực đoan với văn hóa cổ truyền, phá bỏ đình chùa, cấm đoán lễ hội, chụp mũ các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng là mê tín dị đoan, xử lý oan sai các văn nghệ sĩ, trí thức... Sau này, Đảng ta đã kịp thời điều chỉnh, khắc phục các biểu hiện thái quá, coi trọng văn hóa truyền thống với tất cả sự đa dạng và đặc thù của nó. Hiện nay, di sản văn hóa đã trở thành nguồn tài nguyên nhân văn to lớn để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố sức mạnh nội sinh của đất nước.
Ba là, dân tộc hóa không có nghĩa là độc tôn văn hóa, chỉ đề cao văn hóa của mình, cách nghĩ cách cảm của dân tộc mình, sa vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Vào thời điểm những năm 40 của thế kỷ XX, trong bối cảnh phải cương quyết đấu tranh với các tông phái văn nghệ có nguy cơ làm sao nhãng quần chúng khỏi cuộc chiến sinh tử trước mắt, bản Đề cương phải đề ra các biện pháp tự vệ bằng cuộc đấu tranh triệt để “chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v. làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”1. Tuy nhiên, khi mục đích tối cao đã đạt được, Đảng ta đã cởi mở, tạo điều kiện để mọi trường phái văn học, nghệ thuật tự do phát triển. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, tiếp cận được với tất cả các trào lưu, khuynh hướng, trường phái văn hóa, văn học, nghệ thuật của thế giới.
Bốn là, dân tộc hóa phải có chỗ dựa vững chắc là bản sắc văn hóa dân tộc. Bản sắc dân tộc được kết tinh trong ý thức dân tộc, tâm hồn dân tộc, tính cách dân tộc, tâm lý dân tộc, di sản văn hóa của dân tộc... Bản sắc dân tộc tạo nên cốt cách, tinh hoa, “quốc hồn, quốc túy” cho văn hóa Việt Nam, bảo đảm sự trường tồn của dân tộc. Bản sắc văn hóa cũng góp phần tạo dựng bản lĩnh, nội lực, giúp chúng ta “hòa nhập mà không hòa tan”, đứng vững trong cơn lốc toàn cầu hóa. Bản sắc văn hóa tạo sức đề kháng, trở thành

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.28.
đối trọng để chống lại sự xâm lăng văn hóa, bá quyền văn hóa trong hội nhập quốc tế hiện nay.
Năm là, dân tộc hóa trong bối cảnh hiện nay phải đi đôi với quốc tế hóa, tức là mang các giá trị văn hóa dân tộc quảng bá ra thế giới, thâm nhập vào các nền văn hóa khác. Khi văn hóa dân tộc đã phát triển ở trình độ cao, phát triển đến mức đủ sức chinh phục, cuốn hút các cộng đồng khác, thì văn hóa dân tộc đã mang tính quốc tế mạnh mẽ. Văn hóa càng có bản sắc dân tộc ở trình độ cao thì càng được quốc tế hóa tương ứng. Ngược lại, càng được quốc tế hóa mạnh mẽ, thì càng làm giàu cho văn hóa nước nhà, củng cố bản sắc dân tộc. Bài học Hallyu của Hàn Quốc là một ví dụ. Có như vậy, chúng ta mới không chỉ “nhận” mà còn “cho”, có những đóng góp nhất định vào bức tranh chung của văn hóa nhân loại. Hiện nay múa rối nước, xiếc tre, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, áo dài, phở, nem... của Việt Nam đang ngày càng chinh phục thế giới. Chúng ta cần thúc đẩy để quá trình này trở nên đa dạng và rộng rãi hơn, bao gồm cả những sản phẩm đương đại như đưa phim Việt, nghệ thuật biểu diễn Việt, mỹ thuật Việt thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường quốc tế.
2.2. Nguyên tắc “đại chúng hóa”
Đại chúng hóa theo tinh thần của Đề cương là nhằm “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”1. Đại chúng ở đây được hiểu là quảng đại quần chúng, quần chúng nhân dân.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam khi đó, đây là một nguyên tắc rất mới và tiến bộ. Lần đầu tiên trong lịch sử văn hóa dân tộc, quần chúng nhân dân lao động được xác định vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của văn hóa. Trước đó, nền giáo dục phong kiến khoa cử Nho học khiến cho văn hóa Việt Nam mang tính đẳng cấp rõ rệt, chủ yếu là dành cho số ít những người có đặc quyền, đặc lợi trong xã hội. Trong thời kỳ Tây học cũng chỉ những người thuộc tầng lớp trên mới có điều kiện tiếp thu học vấn và sáng tạo văn hóa. Đánh giá về văn hóa Việt Nam giai đoạn này, Tổng Bí thư Trường Chinh từng viết: Người ta viết, vẽ, đàn, hát, múa, xây, nặn cốt để cho bọn quyền

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.24.
quý thưởng thức đã chứ! Mà cũng chỉ bọn họ mới đủ tiền tài và trí tuệ thưởng thức những sản phẩm văn hóa “cao quý” trong chế độ này. Hơn nữa, người ta viết, vẽ, đàn, hát, múa, xây, nặn để ru ngủ quần chúng làm cho quần chúng tin theo bọn quyền quý, hoặc mê tín ở họa phúc, mong đợi ở Trời, Phật... Nên văn hóa Việt Nam hiện nay hết sức xa đại chúng1.
Tính chất xa đại chúng, phản đại chúng còn thể hiện ở những xu hướng “nghệ thuật vị nghệ thuật”, nghệ thuật tư sản, siêu thực, lập dị, nghệ thuật tháp ngà, xa rời đời sống, coi khinh người lao động. Nhận xét về văn học, nghệ thuật thời kỳ này, Giáo sư Phan Ngọc đã phải phát biểu: “Giới nghệ sĩ đương thời là nơi tập trung của tư tưởng yêu tự do cá nhân đến mức ích kỷ, hoài nghi, duy mỹ, tìm khoái cảm, tự phụ tự đắc, nghệ thuật vị nghệ thuật”2.
Chính vì vậy, nguyên tắc đại chúng hóa đã góp phần đưa văn hóa Việt Nam xích gần hơn với quảng đại quần chúng, biến văn hóa nghệ thuật không còn là sở hữu của một thiểu số nào đó, mà trở thành tài sản chung của toàn dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, các phong trào “bình dân học vụ”, “chống giặc dốt”, truyền bá chữ Quốc ngữ đã góp phần nâng cao dân trí, đưa Việt Nam từ một nước có hơn 90% dân số mù chữ, chữ viết kém phát triển trở thành một nước có nền văn hóa mới, tiến bộ với những thành tựu chưa từng có trong lịch sử.
Trong diễn trình cách mạng, nguyên tắc đại chúng hóa cũng luôn được Đảng ta không ngừng hoàn thiện, điều chỉnh, bổ sung. Ngay từ năm 1957, trong thư gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, đồng chí Trường Chinh thay mặt Trung ương Đảng cũng đã giải thích rõ hơn: “Văn nghệ có tính dân tộc, khoa học, đại chúng, hay nói một cách khác, có tính chất dân tộc, hiện thực, nhân dân3.
Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, quần chúng nhân dân, nhất là công - nông - binh đã trở thành đối tượng chính của sự phản ánh và thưởng thức văn hóa, nghệ thuật. Sau này, đại chúng hóa được phát triển

_____________

  1. Xem Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.1.
  2. Phan Ngọc: Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2000, tr.206.
  3. Hà Xuân Trường: “Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 - Nhìn từ hôm nay”, in trong 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.92.
thành tinh thần dân chủ trong văn hóa Việt Nam, khi người dân được trao toàn quyền sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, nguyên tắc đại chúng hóa và tính chất dân chủ của nền văn hóa vẫn giữ nguyên giá trị cốt lõi. Tuy nhiên, để tương thích với những điều kiện lịch sử mới, nguyên tắc này cần được bổ sung, phát triển và vận dụng linh hoạt hơn. Cụ thể là:
Một là, đại chúng hóa không đơn giản chỉ là phát triển văn hóa đại chúng (mass culture) mà ở đây khẳng định vai trò chủ thể sáng tạo và vận động phát triển văn hóa thuộc về đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đây là một chân lý vĩnh hằng, vì văn hóa bao giờ cũng là sản phẩm sáng tạo của cả một dân tộc. Mặt khác, nền văn hóa Việt Nam chỉ có thể “đậm đà bản sắc dân tộc” khi nó được nuôi dưỡng trong bầu “khí quyển” của văn hóa toàn dân, nhất là văn hóa dân gian, văn hóa các tộc người.
Hai là, đại chúng hóa là nhằm xóa bỏ mọi bất bình đẳng về trình độ, điều kiện hưởng thụ, sự chênh lệch văn hóa giữa các tầng lớp, bộ phận dân cư, dân tộc, vùng miền trong cả nước. Vấn đề này luôn được Đảng ta khẳng định nhất quán trong các văn kiện của các kỳ đại hội Đảng và nỗ lực hiện thực hóa trong thực tiễn. Hiện nay, với sự phổ cập của giáo dục và văn hóa, trình độ dân trí của nhân dân đã được cải thiện. Do vậy, việc đại chúng hóa trong phát triển văn hóa phải bao gồm hai mặt: phổ cập nâng cao. Phổ cập văn hóa vào đại chúng để nâng cao trình độ của đại chúng.
Ba là, trong nền văn hóa dành cho toàn dân, bên cạnh việc phát triển văn hóa đại chúng nhằm bảo đảm quyền văn hóa cho số đông, cần chú trọng vun đắp, bồi dưỡng, phát triển văn hóa tinh hoa, văn hóa bác học, văn hóa đỉnh cao. Văn hóa tinh hoa là văn hóa của thành phần ưu tú trong xã hội, những người đúc kết được tinh hoa của đại chúng, đại biểu cho trí tuệ của đại chúng, những cánh chim đầu đàn mở đường cho đại chúng. Tuy chiếm số ít, nhưng đây mới là bộ phận tạo nên những bước ngoặt về tư tưởng, học thuật, khoa học... Giới trí thức tinh hoa bị suy thoái thì dân tộc rất dễ bị diệt vong về mặt tinh thần, đất nước khó có thể có những đột phá trên con đường phát triển.
Bốn là, từ cái nhìn hệ thống, nguyên tắc đại chúng hóa hiện nay phải đặt trong tổng thể các mối quan hệ hữu cơ liên quan. Về cơ bản, chủ thể và khách thể chính của văn hóa Việt Nam vẫn là nhân dân, nhưng phải có sự kết nối và phân định chức năng bảo đảm sự phát triển đồng bộ của tổng thể. Về vấn đề này, Đảng ta đã xác định rất rõ trong Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”1.
2.3. Nguyên tắc “khoa học hóa”
Khoa học hóa theo tinh thần của Đề cương là nhằm “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”2. Cụ thể hơn, khoa học hóa là đấu tranh chống lại mọi hình thức lạc hậu, thần bí, phản khoa học cản trở sự phát triển của văn hóa, đề cao những giá trị văn hóa mới, tiến bộ, góp phần làm cho văn hóa ngày càng phát triển theo hướng đi lên. Khoa học hóa còn là đặt mọi vấn đề của văn hóa trên cơ sở khoa học, đề cao tư tưởng, học thuật, phát triển các ngành khoa học. Khoa học trở thành nền tảng của nhận thức và hành động để phê phán những di hại quá khứ, đấu tranh với những luận thuyết phản động để định hướng phát triển văn hóa.
Tại thời điểm những năm đó, đây là một nguyên tắc cực kỳ cần thiết và chuẩn xác. Đất nước ta trong suốt thời kỳ phong kiến là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Lối học hành khoa cử thiên về văn chương, hành sáo, không quan tâm đến khoa học thực nghiệm. Trình độ hiểu biết về khoa học của nhân dân rất hạn chế, chủ yếu thiên về duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan. Nguyên tắc khoa học hóa khi ấy đã góp phần đấu tranh về nhận thức, đả phá những quan niệm, học thuyết sai lạc, trang bị cho giới trí thức, văn nghệ sĩ nền tảng lý luận chống lại văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, quá trớn, phong kiến phục cổ, cải lương tư sản..., và bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam sau này, Đảng ta luôn có sự vận dụng linh hoạt và bổ sung, phát triển nguyên tắc khoa học hóa. Tính chất khoa học được phát triển thành tính chất tiên tiến của nền văn hóa với hàm nghĩa là một nền văn hóa phát triển dựa trên thế giới quan

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.49.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.24.
khoa học và hệ tư tưởng tiên tiến của nhân loại. Tiên tiến còn hàm nghĩa là văn minh, hiện đại, tiến bộ... Cho đến nay, nguyên tắc khoa học hóa vẫn giữ nguyên một số giá trị hạt nhân, tuy nhiên, cũng như hai nguyên tắc trên, để phù hợp với điều kiện và bối cảnh mới, nguyên tắc này cần được mở rộng và làm sâu thêm:
Một là, ngày nay, bên cạnh việc đẩy mạnh khoa học hóa nhằm chống lại những gì trái khoa học, phản tiến bộ, sàng lọc những “đồi phong bại tục” cổ hủ, lạc hậu, chúng ta cũng cần “gạn đục khơi trong”, phát huy những thuần phong mỹ tục, tìm về “cổ học tinh hoa”, khai thác những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống, y dược học cổ truyền, tri thức bản địa... phục vụ đời sống đương đại, tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, niềm tin tâm linh của người dân.
Hai là, bên cạnh đó, mặc dù ngày nay khoa học, kỹ thuật đã phát triển vượt bậc, trình độ dân trí được nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện, song những biểu hiện mê tín dị đoan, các hủ tục cũ vẫn có cơ hội trỗi dậy và đang có phần lan rộng. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những hình thức mê tín dị đoan mới, những tà giáo, “tôn giáo lạ”, những tư tưởng, học thuyết phản động... Vì vậy, chúng ta vẫn phải tiếp tục đấu tranh chỉnh đốn, phản bác bằng những hình thức đa dạng và kiên quyết.
Ba là, khoa học hóa hiện nay phải dựa trên cái nhìn khách quan, cởi mở, đa chiều. Dưới góc nhìn khoa học, các trường phái triết học là những phương thức thấu hiểu và lĩnh hội khác nhau về thế giới và con người. Mỗi trường phái dù ít hay nhiều đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Ngày nay từ triết học Khổng, Mạnh vẫn có thể rút ra những bài học quý báu, các học thuyết của Bergson, Kant, Nietzsch đều có những phương diện tích cực. Ngoài ra, còn biết bao lý thuyết, tri thức mới mẻ của nhân loại chúng ta cần học hỏi, tìm hiểu để bổ sung, hoàn thiện nhận thức bên cạnh chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử... Trong thời đại mà trí tuệ loài người có những tiến bộ phi thường, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền văn hóa Việt Nam sẽ không thể phát triển nếu không nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng mới, thành tựu mới của khoa học - công nghệ thế giới.
Bốn là, khoa học hóa hiện nay còn là việc tạo dựng một môi trường nghiên cứu thực sự tự do, dân chủ, cởi mở, là nơi làm khoa học theo đúng nghĩa, chứ không phải nơi làm công tác tư tưởng, làm chính trị. Phải làm thế nào để công tác nghiên cứu khoa học trở thành cơ sở cho hoạt động chính trị, phục vụ hiệu quả cho chính trị, giúp làm chính trị một cách khoa học, hay nói cách khác là khoa học hóa chính trị, chứ không phải chính trị hóa khoa học (khoa học đi sau, phụ họa, minh họa cho chính trị...). Cần tiếp thu khách quan, đa chiều các trường phái triết học, quan điểm học thuật, coi trọng trí tuệ khai phóng, tránh rơi vào tình trạng độc tôn, giáo điều...
*
                                                                                        *       *
Cho đến hôm nay, không ai có thể phủ nhận giá trị lịch sử to lớn của bản Đề cương cũng như vai trò tiên phong mở đường, đặt nền móng lý luận cho công cuộc phát triển văn hóa Việt Nam. Tinh thần chung của Đề cương vẫn là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt các văn kiện sau này của Đảng về văn hóa, văn nghệ, góp phần định hướng và dẫn đạo nền văn hóa Việt Nam cất cánh lên những tầm cao mới.
Từ cái nhìn hôm nay, có thể thấy trong Đề cương còn có một số hạn chế nhất định, thậm chí là cực đoan. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng, “độc lập hay là chết” khi đó rất cần có một thái độ cách mạng triệt để, không khoan nhượng nhằm huy động tổng lực sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc chiến cam go cuối cùng. Bên cạnh đó, vì mới ở dạng “đề cương”, nên chủ yếu ở đây là các luận điểm, chưa có điều kiện diễn giải, phân tích sâu. Đề cương cũng được viết trong thời kỳ nền lý luận mácxít còn non trẻ, tài liệu trong vòng bí mật, còn thiếu thốn, do vậy một số đánh giá, nhận định có thể chưa được đầy đủ, khách quan. Sau này, cùng với sự phát triển ngày càng đi lên và khơi sâu của nhận thức và tư duy khoa học, nhiều nội dung của Đề cương đã được Đảng ta nhận thức lại, điều chỉnh và mở rộng.
Thời gian ngày càng trôi qua, tình hình đất nước và thế giới ngày càng biến đổi, đòi hỏi chúng ta phải biết phát triển và vận dụng Đề cương một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tình hình mới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam xứng đáng với lịch sử hào hùng và tầm vóc vĩ đại của dân tộc.
 

VÀI SUY NGHĨ VỀ GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA TÁC PHẨM

“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH
LÊ PHẠM HOÀNG LONG*
CHÂU THỊ THÙY TRANG**
1. Vài nét về tác phẩm “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 và bối cảnh ở Việt Nam đương thời
Tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam được soạn thảo vào năm 1943 bởi đồng chí Trường Chinh, khi ấy là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương1. Tháng 2/1943, Đảng Cộng sản Đông Dương ban hành “Đề cương về văn hóa Việt Nam (Đề cương)” và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Trong đó, tác phẩm được chia thành năm phần, gồm: (1) Cách đặt vấn đề; (2) Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; (3) Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; (4) Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam; (5) Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam.
Ở tác phẩm, mỗi một vấn đề lại được trình bày những nội dung rất cơ bản và các nội dung đó gắn quyện với nhau để chỉ ra rằng ở Việt Nam tất yếu phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa. Đặc biệt, cuộc cách mạng đó

_____________

* Khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
** Trường Trung học phổ thông Vĩnh Bình, tỉnh Tiền Giang.
1. Khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng tên gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1930 đến năm 1951).
phải do Đảng Cộng sản Đông Dương đứng ra lãnh đạo. Đây là một văn kiện hết sức xúc tích, hết sức ngắn gọn, tất cả chỉ khoảng 1.500 chữ. Nhưng khi đặt nó trong bối cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội, bối cảnh phong trào cách mạng và bối cảnh văn hóa - nghệ thuật Việt Nam lúc đó, bản “Đề cương về văn hóa Việt Nam” vẫn có ý nghĩa về nhiều mặt, nhất là nó đã tạo dựng một nền tảng cơ bản vững chắc để từ đó Đảng phát triển các lý luận về định hướng xây dựng nền văn hóa của nước nhà.
Quay trở lại bối cảnh khi đó, ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan, Anh Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nhằm củng cố khối liên minh phát xít, được ký kết tại Berlin. Bản hiệp ước quy định về việc phân chia thế giới, Đức - Italia thôn tính châu Âu, Nhật Bản thôn tính vùng Viễn Đông. Tháng 9/1940, Nhật kéo quân vào Đông Dương. Chúng vượt biên giới Việt - Trung đánh vào Lạng Sơn, đồng thời cho 6.000 quân theo đường biển đổ bộ lên Đồ Sơn (Hải Phòng). Thực dân Pháp đầu hàng phải ký với Nhật hiệp ước mà theo đó Đông Dương trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật. Để phục vụ cho nhu cầu của chiến tranh, Nhật Bản đã tăng cường bắt lính để bổ sung cho quân đội phát xít ở Đông Dương và các chiến trường. Chúng cướp bóc lúa gạo, không trả lương, tăng giờ làm, sa thải thợ thuyền, tăng thuế, ban hành các thuế mới và các loại công trái, v.v..
Về văn hóa, nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối đời sống tinh thần của dân tộc. Một bộ phận người lầm tưởng học thuyết Đại Đông Á của Nhật khi cho rằng đây chính là cơ hội để văn hóa nước nhà có cơ hội phục hưng, được “trở về” với nguồn gốc Á Đông sau một thời gian dài bị nô dịch bởi thực dân Pháp. Lúc này thuyết Đại Đông Á không phải không mê hoặc không ít người. Những tư tưởng triết học của phương tây được giới thiệu ở Việt Nam lúc này (Descarter, Kant, Nietzsche, Gergson, v.v.) cũng đang có nguy cơ gây lạc đường cho nhiều trí thức chán ghét những tư tưởng cũ nhưng chưa tìm ra được hướng đi mới cho đời mình, vẫn còn những trí thức loay hoay trong xu hướng nệ cổ, xu hướng cực đoan trong học thuật. Nhiều trí thức yêu nước lúc này đang gặp những lúng túng, bế tắc. Trong đời sống văn chương, sự khủng hoảng, bế tắc của các trường văn học công khai đã bộc lộ rõ. Văn học lãng mạn về cơ bản đã đi hết đoạn đường rực rỡ nhất của nó, đã bắt đầu bộc lộ những lối đi khác trước nhưng thần bí và bế tắc hơn. Văn học hiện thực không còn dáng vẻ lực lưỡng và đi vào những vấn đề trực diện như giai đoạn trước.
Chiến tranh, khủng hoảng xã hội đã làm cho văn học đánh mất dần đi những giá trị tích cực vốn có của nó. Tất cả những điều này có nguy cơ ảnh hưởng đến việc “nhận đường” cho một giai đoạn quan trọng của thời kỳ chuẩn bị cách mạng xã hội nếu không có một phương hướng mới được vạch ra về vấn đề văn hóa của nước nhà.
2. Vài suy nghĩ về những giá trị nội dung cốt lõi của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” đối với lịch sử và văn hóa Việt Nam thời đại
Hồ Chí Minh
Có thể nói ngay rằng, tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam được xem như một bản cương lĩnh sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề văn hóa của nước nhà trong thời đại Hồ Chí Minh. Những nội dung cốt lõi của nó đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự phân tích sắc sảo, biện chứng và khoa học dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin của đồng chí Trường Chinh nói riêng và tập thể lãnh đạo của Đảng nói chung.
Trước tiên, xét về bố cục, tác phẩm đã được trình bày theo một trình tự logic, đúng với cấu trúc thường sử dụng trong các công trình nghiên cứu khoa học, bao gồm: mở - thân - kết. Với phần mở đầu, tác phẩm đã đặt ra một số vấn đề cần phải được làm rõ như: phạm vi vấn đề; quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị; thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa. Trong phần “thân”, tác phẩm đã được phân chia thành ba phần: (1) Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; (2) Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; (3) Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam. Ở phần “kết”, tác phẩm đã đưa ra Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam1. Có thể thấy, đây là một tác phẩm mang tính khoa học khi đã có đặt ra vấn đề, trình bày những vấn đề cần được giải quyết và đưa ra các biện pháp nhằm tháo gỡ những vấn đề đã được trình bày.
Đi sâu vào các phần nội dung cốt lõi của tác phẩm, người đọc có thể thấy được một cách toàn diện những vấn đề đã được nêu song lại cực kỳ ngắn gọn và súc tích. Ở đây, đồng chí Trường Chinh đã sử dụng cách trình bày dưới

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.316-321.
dạng “gạch đầu dòng” nhằm rút gọn và giản đơn nhưng vẫn bảo đảm đầy đủ những quan điểm và ý kiến, tạo cho người đọc cảm giác dễ đọc và nhanh chóng nắm bắt được vấn đề. Trong phần “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”, tác phẩm đã nêu ra những giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam, gồm: (1) Thời kỳ Quang Trung trở về trước; (2) Thời kỳ từ Quang Trung đến khi đế quốc Pháp xâm chiếm; (3) Thời kỳ từ Pháp sang xâm chiếm đến nay. Đồng thời, tác phẩm cũng xác định rõ tính chất văn hóa Việt Nam hiện tại là gì, đồng thời chiến tranh và xu trào văn hóa hiện nay sẽ là như thế nào. Nhóm tác giả cho rằng, tác phẩm đã có sự tìm hiểu và khái lược lại tính chất của nền văn hóa Việt Nam xuyên suốt từ cổ chí kim. Mặc dù nhóm tác giả không rõ lý do vì sao tác phẩm sử dụng cách phân kỳ các giai đoạn lịch sử văn hóa nước nhà như trên nhưng tác phẩm vẫn đã thể hiện rõ nét chính kiến của mình về vấn đề phân kỳ tính chất văn hóa Việt Nam.
Ở phần “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp”, tác phẩm đã miêu tả những thủ đoạn phát xít của hai thế lực thực dân, đế quốc là Pháp và Nhật nhằm trói buộc và giết chết văn hóa Việt Nam. Điều này đã phản ánh sự nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc trong một thời gian dài của tác giả - đồng chí Trường Chinh. Vì chỉ khi trực tiếp tham gia sâu rộng vào các hoạt động văn hóa - xã hội trước đây, người viết mới có thể nắm bắt được thực tiễn và viết ra một cách khách quan và chính xác. Và với kinh nghiệm nhiều năm tham gia các hoạt động của Đảng trong lĩnh vực văn hóa ở Bắc Kỳ trước đó, những lời phân tích trong tác phẩm do đồng chí Trường Chinh soạn thảo rõ ràng có cơ sở và có “trọng lượng”. Ngoài ra, đồng chí Trường Chinh cũng nêu ra tiền đồ văn hóa Việt Nam theo hai ức thuyết (phát xít hoặc cách mạng dân chủ giải phóng), đồng thời xác định rõ cách mạng dân tộc Việt Nam “nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực”1. Qua đây, nhóm tác giả thấy rằng Đảng đã nhận thấy, đánh giá kỹ lưỡng và định hướng đúng đắn con đường phát triển của văn hóa Việt Nam phải được đặt dưới sự hỗ trợ của cuộc cách mạng dân chủ giải phóng mới có thể đưa văn hóa của dân tộc ta trở nên tiến bộ và văn minh hơn.
Đặc biệt, phần “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam” được xem là phần quan trọng nhất trong toàn bộ các nội dung của tác phẩm. Tác phẩm đã chỉ

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318.
ra quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa, đồng thời định hướng rõ ràng về mặt chiến lược cho công tác văn hóa, như: (1) phải hoàn thành cách mạng văn hóa; (2) phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo; (3) cách mạng văn hóa có thể hoàn thành sau khi cách mạng chính trị thành công; (4) những phương pháp cải cách hiện tại chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau. Sau đó, tác phẩm cũng chỉ ra rằng nền văn hóa của nước nhà sau này sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa; cách mạng văn hóa nước nhà phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng cũng như cách mạng dân tộc giải phóng chỉ có thể trong trường hợp may mắn nhất đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập; phải gây dựng một nền văn hóa xã hội ở khắp Đông Dương; tính chất của nền văn hóa mới của Việt Nam chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa hay văn hóa Xôviết và văn hóa mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Như vậy, Đảng ta đã vạch rõ và phân tích kỹ lưỡng hướng phát triển và dự kiến điểm phát triển của văn hóa Việt Nam trong thời gian tiếp theo. Đảng cũng lấy xuất phát điểm của nền văn hóa hiện tại, không lý tưởng hóa quá mức để đánh giá một cách khoa học.
Đặc biệt nhất, chính là ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn đó. Đến tận ngày nay, đây vẫn là ba nguyên tắc bất di bất dịch được sử dụng trong các chính sách văn hóa của Đảng. Cụ thể, ba nguyên tắc bao gồm1:
+ Dân tộc hóa, nghĩa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho nước Việt Nam phát triển độc lập.
+ Đại chúng hóa, nghĩa là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng.
+ Khoa học hóa, nghĩa là chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ.
Đảng ta cũng đã khẳng định rằng: “Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”. Có thể thấy, ba nguyên tắc trên là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.319.
trọng đại của lịch sử. Do khả năng định hướng, tập hợp, đưa tất cả đội ngũ trí thức tham gia cách mạng nên nó đã góp phần quan trọng làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, tạo cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa kháng chiến - kiến quốc trong những năm tiếp theo1. Ngoài ra, tư tưởng cứu quốc với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết” trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, khơi dậy ở mỗi người, mỗi cộng đồng, đảng phái, tôn giáo lòng yêu nước và khát vọng độc lập. Tinh thần cứu quốc của văn hóa trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, được nhận thức sâu sắc ở cả tầm lãnh đạo lẫn trong nhận thức, tình cảm và hành động của mỗi cá nhân. Trong đó, chính nhờ vào ba nguyên tắc nền tảng trên, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam vào năm 1943 đã trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận Văn hóa cứu quốc. Theo hồi ức của các nhà hoạt động văn hóa Cứu quốc thì nhờ có những hoạt động hiệu quả này mà trong Quốc dân đại hội Tân Trào, đại biểu của Văn hóa cứu quốc đã có vị trí quan trọng và trong thời gian trước, trong, sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tinh thần cứu quốc của văn hóa đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân, tập hợp thành một lực lượng hùng hậu ủng hộ cách mạng2. Có thể khẳng định, tác phẩm là văn kiện đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ giới trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo3.
Trong phần cuối cùng, “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam”, tác phẩm đã liệt kê một cách cơ bản mục đích trước mắt, công việc phải làm và cách vận động. Các công việc được trình bày dưới dạng gạch đầu dòng nên người đọc rất dễ nắm bắt những điều cần phải làm khi ấy. Nhóm tác giả cho rằng, mặc dù chính đồng chí Trường Chinh đã thừa nhận sau 40 năm khi ra đời, tác phẩm
“không dài, có nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ

_____________

  1. Phong Lê: “Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 - bài học 70 năm”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, tr.31-36.
  2. Xem Phạm Quang Long: “Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943: Ngọn cờ tập hợp trí thức tham gia cách mạng”, trang web Tạp chí Tuyên giáo, đăng ngày 15/02/2023.
  3. Xem Trần Đăng Khoa: “78 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam - Sức sống của một văn kiện mang tầm vóc cương lĩnh”, trang web Trường Đại học An ninh nhân dân.
điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam...”1, nhưng nó đã gián tiếp định hình một nền tảng cốt lõi nhất để chỉ đạo về sau về công tác văn hóa của Đảng. Cũng như, sự ngắn gọn của tác phẩm đã phù hợp với trình độ nhận thức chung của đại bộ phận cán bộ và nhân dân khi đó. Điều này vô tình trùng khớp với chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước đó khi soạn thảo báo chí tuyên truyền rằng: “Báo của các chú văn hay, chữ nhiều nhưng khó đọc, và có đọc được cũng không mấy ai hiểu”2.
*
*     *
Tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943, được đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo. Tháng 2 cùng năm, Đảng Cộng sản Đông Dương ban hành bản Đề cương này và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Trong đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam là một trong những tác phẩm đầu tiên và căn bản nhất của Đảng ta về vấn đề văn hóa. Tác phẩm cũng thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự quan tâm sâu sắc của Đảng về văn hóa nước nhà. Trước tình cảnh tăm tối của nền văn hóa “sau mấy mươi năm giời nô lệ”3, tác phẩm như một nguồn sáng mới định hướng cho nền văn hóa và giới văn nghệ sĩ trí thức đi đến thời kỳ xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam.
Trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 40 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh cho rằng: “Văn hóa là một vấn đề rất rộng lớn... Đề cương đi thẳng vào vấn đề văn hóa. Đó là lĩnh vực phản ánh toàn bộ đời sống xã hội vào ý thức của con người, thể hiện phong phú trên các mặt: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật”4. Tác phẩm đã được trình bày theo một bố cục khoa học “mở - thân - kết” và đưa ra định hướng kèm giải pháp thực tế, phù hợp đối với sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong thời đại tiếp theo. Ba nguyên tắc “dân tộc hóa - khoa học hóa - đại chúng hóa” trong tác phẩm đã trở thành nền tảng căn bản bậc nhất để Đảng tiếp tục bổ sung, nâng cao và

_____________

1, 4. Nhiều tác giả: Bốn mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.5, 12.
  1. Võ Nguyên Giáp: Tổng tập Hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2018.
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4. tr.34.
hoàn thiện lý luận về con đường phát triển văn hóa nước nhà. Tám thập niên kể từ sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) tiếp tục nhấn mạnh định hướng phát triển con người toàn diện và xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, con người đóng vai trò chủ thể, đồng thời là mục đích của việc phát triển văn hóa1. Đây rõ ràng là minh chứng cụ thể nhất cho vai trò và vị thế to lớn của tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam đối với hậu thế. Hiện nay, nền văn hóa của nước nhà vẫn tiếp tục có những bước tiến xa, vững vàng và mạnh mẽ về phía trước nhằm đưa đất nước Việt Nam trong tương lai trở nên hùng cường và thịnh vượng

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
 

80 NĂM “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC

PGS.TS. PHẠM QUANG LONG*
1. Đặt vấn đề
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 do đồng chí Trường Chinh Tổng Bí thư của Đảng khởi thảo, ra đời trong hoàn cảnh Đảng vẫn còn hoạt động bí mật vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Lúc đó ở Việt Nam, xã hội thực dân nửa phong kiến đang suy thoái trầm trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai đang làm cho đất nước kiệt quệ, tình hình chính trị, xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp nhưng cũng đặt ra những thời cơ cho cuộc cách mạng xã hội. Trên lĩnh vực văn hóa, nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối đời sống tinh thần của dân tộc. Nhiều người lầm tưởng về học thuyết Đại Đông Á của Nhật khi cho rằng đây chính là một cơ hội để văn hóa Việt Nam phục hưng, do được hưởng lợi từ quan niệm “đồng chủng đồng văn” của người Nhật, được “trở về” với nguồn gốc Á Đông sau một thời gian dài bị nô dịch bởi người Pháp. Những tư tưởng triết học của phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam lúc này như triết học Đêcác, Bécson, Căng, Nitsơ cũng đang có nguy cơ gây lạc đường cho nhiều trí thức chán ghét những tư tưởng cũ nhưng chưa tìm ra được hướng đi mới cho đời mình. Xu hướng nệ cổ, xu hướng cực đoan trong học thuật, những bế tắc của văn chương... (chủ nghĩa lãng mạn đã đi vào bế tắc, chủ nghĩa hiện thực đã đi hết thời kỳ phản kháng mạnh mẽ nhất thuộc về bản chất của nó và dần lộ ra những dấu hiệu không còn tính chiến đấu như giai đoạn những năm 1930, trừ trường hợp của Nam Cao đã rẽ sang một hướng khác), tạo ra một không khí ngột ngạt, bế tắc trong đời sống. Tất cả những

_____________

* Nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hà Nội.
điều này có nguy cơ ảnh hưởng đến việc “định hướng” cho một giai đoạn quan trọng của thời kỳ chuẩn bị cách mạng xã hội. Trong “đêm trước của cuộc cách mạng”, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam mà chúng ta hay gọi là Đề cương văn hóa 1943 ra đời là một sự cần thiết nhằm hướng sự phát triển của văn hóa Việt Nam vào những mục tiêu mới, chuẩn bị cho một phong trào cứu quốc ở Việt Nam. Ý nghĩa cứu quốc, phục hưng văn hóa dân tộc bắt nguồn từ ngay cách đặt vấn đề của Đảng.
Với Đề cương văn hóa 1943, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra một cương lĩnh văn hóa mà ở đó nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của cách mạng văn hóa trong và sau cách mạng giải phóng dân tộc và định hướng phát triển của nền văn hóa ấy theo xu hướng hoàn toàn mới. Trong thực tiễn, tinh thần của Đề cương có tác dụng định hướng và lãnh đạo văn hóa Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
Như tên gọi của văn bản, đây chỉ là một đề cương các hoạt động chính của một đảng chính trị trong điều kiện hoạt động bí mật, nên văn bản mới chỉ dừng lại ở những định hướng lớn, những nguyên tắc mang tính chất nền tảng, nhiều vấn đề cũng mới chỉ được nêu ra mà chưa có điều kiện đi vào những nội dung cụ thể, những quan hệ phức tạp trong một cương lĩnh văn hóa đầy đủ. Sau khi cách mạng thành công, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, đồng chí Trường Chinh đã đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam nhằm quán triệt và làm rõ hơn nhiều vấn đề mà trước đó bản Đề cương chưa có điều kiện bàn kỹ. Hơn nữa, về mặt chính thống, Nhà nước Dân chủ Nhân dân đã được thiết lập, Đảng đang lãnh đạo cuộc kháng chiến và đặt nền móng cho sự nghiệp kiến quốc theo mô hình Xôviết. Ở văn bản này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày kỹ hơn, giải thích rõ thêm nhiều nội dung của Đề cương và tinh thần nhất quán của quan điểm ấy hết sức rõ ràng và trên thực tế, những gợi mở, đề xuất đầu tiên này đã được triển khai, vận dụng trong suốt chiều dài vận động của văn hóa Việt Nam từ đó đến nay. Sự nhất quán của quan điểm chỉ đạo ở trong những văn bản này là điều dễ nhận thấy và những nguyên tắc về một nền văn hóa thuộc về tương lai, tầm nhìn và sự minh triết của nó đã đặt nền tảng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam suốt chiều dài phát triển của sự nghiệp cách mạng là sự thực lịch sử không thể phủ nhận. Nhưng ở đây cần phải ghi nhận một điều: Đề cương mới chỉ là những phác thảo mang tính định hướng cho việc xây dựng một nền văn hóa mới (dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa), sau này dù được giải thích rõ hơn, được chỉ đạo cụ thể hơn thì trước sau nó vẫn chỉ là định hướng, là “nguyên tắc lớn” của cuộc vận động văn hóa, là sự chỉ đạo chứ không phải là toàn bộ các quan hệ, giá trị, vấn đề của nền văn hóa. Hai trụ cột quan trọng nhất của văn hóa mới là đời sống văn hóa và con người - với tư cách là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa và hệ giá trị của nó, cũng mới chỉ được vạch ra trong những phác thảo, thậm chí có vấn đề chưa được đặt ra một cách đầy đủ mà trong nhiều khía cạnh, nó mới chỉ được đặt ra do yêu cầu thực tiễn, mang tính sách lược, vừa tầm. Sau 80 năm nhìn lại Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 đòi hỏi phải nhìn nhận vấn đề theo quan điểm lịch sử mà không giáo điều là vì vậy.
2. Tính chất định hướng, tính chất thực tiễn của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Nhiều nhà nghiên cứu đã nói về tính chất cứu quốc, vai trò phục hưng văn hóa dân tộc của Đề cương từ khi nó mới ra đời. Vấn đề này không mới nhưng cũng cần nhắc lại tính thực tiễn các quan điểm về văn hóa của Đảng. Tính hành động, kịp thời đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn luôn là những điểm nổi bật trong các chiến lược, sách lược cách mạng. Nói như vậy không hề làm giảm đi tính chất khoa học và lý luận của đường lối, mà về thực chất nếu không nhận thức đúng quan điểm này thì rất dễ vướng vào các quan điểm giáo điều, bám vào câu chữ hoặc rơi vào sự lệch lạc khác là đơn giản hóa những điều Đề cương đã nêu ra. Với tư cách là một bản đề cương, lại được vạch ra vào đêm trước của cuộc cách mạng xã hội nên những đường hướng mà Đề cương vạch ra chỉ mang tính định hướng, xác lập những nguyên tắc hành động chứ bản thân những tư tưởng ấy chưa phải và không thể là những nguyên lý hoặc những quy luật của văn hóa. Đây không phải là những suy diễn thiếu cơ sở mà căn cứ vào cách giải thích khái niệm sẽ nhận thấy đó là một sự thực. Bản Đề cương bao gồm nhiều nội dung lớn, sau mỗi vấn đề lại được chia ra thành những nội dung nhỏ hơn nhưng có khả năng bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung, trong đó có cả những giả thuyết của văn hóa Việt Nam trong tương lai, tính chất của nền văn hóa ấy và những phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa. Cũng trong văn bản này, lần đầu tiên Đảng đặt vấn đề về văn hóa trong cách mạng dân tộc dân chủ, đánh giá (sơ lược) lịch sử văn hóa Việt Nam, những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ của ngoại bang, vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, những nguyên tắc vận động văn hóa mới, tính chất của nền văn hóa mới, những phương thức vận động văn hóa mới trong cuộc cách mạng sắp diễn ra và sau khi đã thành công, v.v., nghĩa là lần đầu tiên Đảng nêu ra một đề cương vận động, một cương lĩnh (có thể nói như thế) về một nền văn hóa phải có, sẽ có sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành và tiếp đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, như là một bước tiếp theo tất yếu phải có của cuộc cách mạng xã hội. Đề cương nói về một cuộc cách mạng văn hóa trong tương lai, hoàn toàn khác trước đây cũng như hiện tại từ một cách nhìn hoàn toàn mới, mang tinh thần cách mạng chứ không phải là những cải cách, điều chỉnh. Lần đầu tiên vấn đề văn hóa được xem xét trong mối liên hệ với các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, như một hoạt động tinh thần mang tính xã hội có ý thức cao hơn, gắn bó chặt chẽ với cơ sở xã hội, chịu sự lãnh đạo thống nhất của thể chế, có nhiệm vụ, mục đích chung vì cộng đồng, có tổ chức thống nhất như một bộ phận không tách rời khỏi cơ sở xã hội. Cùng thời với Đề cương cũng có những nghiên cứu khác về văn hóa nhưng thường được xem xét trong cấu trúc nội tại của nó gắn với sự vận động của lịch sử nhưng chưa gắn chặt chẽ với những vấn đề của hệ tư tưởng và chưa đặt ra những nhiệm vụ như ở văn bản này...
a) Trong phần Cách đặt vấn đề, Đề cương đã xác định “ba phạm vi tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” là ba lĩnh vực của văn hóa Việt Nam, mà ở đó, người cộng sản phải nắm lấy, coi đó là một nhiệm vụ của mỗi cá nhân và tổ chức đảng. Rõ ràng ở đây, vấn đề tư tưởng, học thuật và đời sống văn học được đưa lên hàng đầu bởi những năm tháng ấy, tình hình tư tưởng và học thuật Việt Nam đang có nhiều vấn đề cần phải giải quyết để phục vụ cho cuộc cách mạng xã hội mà lúc đó Đảng Cộng sản đã khởi xướng được hơn 10 năm. Những “cuộc tập dượt” 1930-1931, 1936-1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã nổ ra, và ở Việt Nam, do sự bưng bít thông tin, do những chính sách văn hóa của Pháp - Nhật đang làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng xa rời cái gốc dân tộc và có nguy cơ lún sâu vào quỹ đạo của văn hóa nô dịch đế quốc, thực dân, mà Đề cương đã phải đặt vấn đề tư tưởng, học thuật và nghệ thuật như ba phạm vi quan trọng nhất, nổi lên hàng đầu trong cuộc đấu tranh mà người cộng sản phải nắm lấy và thực hiện. Rõ ràng ở đây, khái niệm văn hóa mới chỉ được sử dụng theo nghĩa hẹp và cũng chưa đạt tới cách hiểu về văn hóa của Hồ Chí Minh được nêu ra trong cùng thời gian ấy từ trong những ghi chép của Người trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch1. Ba lĩnh vực mà Đề cương nêu ra, hiển nhiên đã coi trọng vấn đề tư tưởng, thái độ xã hội của những người làm văn hóa (thực chất là xác định chỗ đứng, thái độ của người hoạt động văn hóa, suy rộng ra là cả một nền văn hóa cần xây dựng trong tương lai) cũng như tầm quan trọng của nó trong cuộc cách mạng xã hội. Nói như thế không phải là suy diễn một cách võ đoán ra ngoài văn bản mà đến khi có điều kiện, trong Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam cũng như trong các văn bản sau này Trường Chinh - người dự thảo Đề cương, người lãnh đạo cao nhất hoặc thay mặt Đảng nói rõ hơn, trực tiếp và cụ thể hơn quan điểm này. Nếu chỉ giới hạn văn hóa trong ba phạm vi trên là đã “bỏ quên”, “không tính đến” nhiều phương diện khác của văn hóa như ngày nay chúng ta hiểu và như bản chất của nó vẫn thế nhưng chưa nhận thức đầy đủ mà thôi. Đồng thời, lại cũng cần phải nhận thức về tính chất trực tiếp, ưu tiên của Đề cương lúc này là dành cho những vấn đề tư tưởng - một biểu hiện khác của cuộc đấu tranh chính trị - đang được thể hiện trực tiếp, gay gắt trên lĩnh vực học thuật, nghệ thuật. Mục tiêu chính trị hàng đầu của Đảng lúc này là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền. Trong Đề cương, vì vậy, chưa có điều kiện (có lẽ cả do mục tiêu chưa đặt ra và cả nhận thức chưa đầy đủ về các lĩnh vực khác nhau và đánh giá hết vai trò, ý nghĩa của văn hóa) để nói về văn hóa với tất cả các lĩnh vực và nội dung vốn có của nó. Điều này cũng là lẽ tự nhiên, bởi như phương châm cách mạng của Đảng có vấn đề nêu ra những nội dung thích hợp, những mục tiêu cách mạng “vừa tầm” để cuộc đấu tranh nhanh chóng giành được thắng lợi. Ngay cả C. Mác hay V.I. Lênin khi bàn về những vấn đề của văn học, nghệ thuật, cũng thường từ chính trị học, triết học và các ông khi khai thác một ví dụ, một nội dung nào đó của

_____________

1. Trong những ghi chép của Nguyễn Ái Quốc năm 1943 về văn hóa, có đoạn: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458).
nghệ thuật cũng không mấy khi chú ý đến toàn bộ nội hàm của khái niệm mà chủ yếu khai thác những gì cần và có lợi cho mục đích của mình. Do đó, khi nghiên cứu di sản của các nhà kinh điển về văn học, nghệ thuật cũng nên lưu ý khía cạnh hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và hoàn cảnh văn bản để tránh những suy diễn, quy kết, cố tình hiểu sai ý định của họ. Với Đề cương cũng như vậy, bởi ngay ở mục 2 có viết: “Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị” cũng khẳng định nền văn hóa mới phải được xây dựng trên “nền tảng kinh tế” và “chế độ kinh tế” và cuộc “cách mạng văn hóa” là một nhiệm vụ song song với cuộc “cách mạng chính trị”, bởi “có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” và văn hóa được coi như là một trong ba “mặt trận” phải do Đảng lãnh đạo. Rõ ràng trong luận điểm này, Đảng đã coi văn hóa như một phương tiện, một công cụ của cuộc đấu tranh chính trị. Nó mang tính trực tiếp, nó là công cụ chuyển tải những tư tưởng cách mạng đến với quần chúng. Quan điểm này kéo văn hóa đến gần đời sống hơn, nhưng mặt khác nó cũng tiềm ẩn những nguy cơ làm cho việc nhận thức nội dung, vai trò, vị trí và những đặc trưng của văn hóa chỉ còn khuôn lại trong phạm vi những gì có lợi cho mục tiêu của Đảng, làm đơn giản hóa những đặc thù của văn hóa. Ở đây cần chú ý một quan điểm quan trọng của Đề cương, đó là coi văn hóa như một hình thái ý thức xã hội, được xây dựng trên nền tảng của một thượng tầng kiến trúc tương ứng với nó. Quan điểm này là một bước tiến mang tính định hướng rất lớn, nó giúp cho việc nhìn nhận những vấn đề của văn hóa trong mối quan hệ với đời sống xã hội nhiều mặt rõ hơn, nhưng xét về sự tác động qua lại giữa văn hóa với đời sống, dường như mới chỉ thấy nhấn mạnh đến những tác động một chiều, giản đơn, chưa nhận thấy tính đa diện và đa dạng của mối quan hệ này. Luận điểm này, trong những giai đoạn sau của cuộc cách mạng xã hội, trong quá trình tổ chức và triển khai những nhiệm vụ của một nền văn hóa mới đã bộc lộ tính chất đơn giản và giáo điều của lý thuyết hình thái ý thức xã hội vốn chỉ nhìn từ góc độ chính trị, từ tính chất của một chế độ xã hội trong khi sự tương tác giữa các yếu tố ấy, đặc biệt là vấn đề con người và đời sống tinh thần vốn phức tạp và phong phú hơn nhiều những khuôn mẫu, mô hình.
Một nội dung khác, rất quan trọng cần được nhận thức và đánh giá đúng mức là vấn đề “học thuật, nghệ thuật”. Có người sẽ đặt vấn đề: Tại sao nội hàm của khái niệm văn hóa bao gồm nhiều nội dung khác nữa như di sản văn hóa, hệ giá trị văn hóa, đời sống văn hóa, con người và những quan hệ của nó... cũng rất cần thiết trong giai đoạn lịch sử này, nhưng Đề cương lại chỉ nhấn mạnh ba lĩnh vực “tư tưởng, học thuật và nghệ thuật” và coi đó như một “mặt trận” người cộng sản cần hoạt động và nắm lấy quyền lãnh đạo? Qua hồi ức của những người trong cuộc, đối chiếu với tình hình thực tiễn của đời sống học thuật và nghệ thuật (chủ yếu là văn học) bấy giờ, có thể thấy Đề cương chỉ nêu ra những vấn đề cấp thiết nhất, đặc biệt về tư tưởng và ở những lĩnh vực có thể tác động trực tiếp tới tình hình xã hội nhằm tập trung toàn bộ sức lực cho mục tiêu sắp tới của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Bởi vậy ba lĩnh vực nói trên, nơi thể hiện rõ nhất, tập trung nhất tư tưởng chính thống của chế độ xã hội bấy giờ - cơ sở sẽ đẻ ra nền văn hóa tương ứng với nó, là nền văn hóa nô dịch. Mục tiêu đầu tiên quan trọng nhất là đánh đổ thể chế ấy, nên Đề cương cũng phải tập trung cho nó và “gác lại” những lĩnh vực khác cũng là điều có thể hiểu được. Đồng chí Trần Quốc Hương viết trong hồi ký về sự ra đời của Đề cương đã chứng minh thêm cho lập luận này: “Vấn đề văn hóa mới của dân tộc... Đảng ta đã quan tâm từ lâu rồi. Trong Luận cương do đồng chí Trần Phú khởi thảo, vấn đề này đã được đặt ra. Trong thời kỳ cách mạng Mặt trận Dân chủ, có điều kiện tương đối thuận lợi, Đảng ta đã dành chỗ trên sách báo công khai của mình phổ biến những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, văn nghệ, giới thiệu các nhà văn cách mạng hoặc tiến bộ trên thế giới và trong nước, đề xướng một nền văn nghệ mới, đấu tranh chống những khuynh hướng văn nghệ lạc hậu đương thời. Nhưng phải đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám năm 1941, cuộc vận động văn hóa này mới được Trung ương bàn luận và giải quyết toàn diện cả về đường lối và tổ chức. Do đó, mới có bản Đề cương về văn hóa Việt Nam và Hội Văn hóa Cứu quốc”1. Riêng về văn học và những vấn đề học thuật trên sách báo công khai những năm này cũng đã bộc lộ sự đi xuống, những nhầm lẫn, bế tắc, chịu ảnh hưởng của những quan điểm không lành mạnh của tư tưởng siêu hình, duy tâm, nệ cổ, “mượn màu duy vật”, có thể gây hại cho đời sống văn học, nên ở Đề cương, vấn đề này nêu ra như một nguy cơ phải đấu tranh, loại bỏ.

_____________

1. Một chặng đường văn hóa, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1984, tr.45.
b) Về vấn đề phân kỳ và xác định tính chất của văn hóa Việt Nam, Đề cương khẳng định có 3 giai đoạn rõ rệt: Giai đoạn thứ nhất là “từ thời Quang Trung trở về trước”, “văn hóa Việt Nam có tính chất nửa phong kiến nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Tàu”. Giai đoạn thứ hai tính “từ Quang Trung cho đến khi thực dân Pháp xâm chiếm” là “văn hóa phong kiến có xu hướng tiểu tư sản”. Giai đoạn thứ ba là thời kỳ “từ khi thực dân Pháp xâm chiếm cho đến nay” văn hóa Việt Nam mang tính chất “nửa phong kiến, nửa tư bản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa” (có chú thêm cần “phân biệt mấy giai đoạn trong thời kỳ này”). Về cách phân kỳ và xác định tính chất của mỗi thời kỳ của văn hóa Việt Nam, trên những nét lớn không phải là không có căn cứ, nhưng về mặt học thuật rõ ràng là có sự đơn giản, điểm xuất phát mới chỉ căn cứ, vào quan điểm chính trị mà chưa chú ý toàn diện tới văn hóa như một đối tượng nghiên cứu đa diện và có quy luật vận động riêng. Đề cương căn cứ vào nên tảng kinh tế - xã hội và chế độ kinh tế xây dựng cùng với những hệ thống thiết chế tinh thần của nó để xác định tính chất nền văn hóa. Cũng có thể do đây chỉ là bản đề cương nên tác giả không có điều kiện giải thích rõ hơn luận điểm của mình, nhưng rõ ràng tính chất đơn giản, chỉ mới nhìn thấy những mạch, dòng chính thống, mà chưa thấy được những dòng chảy ngầm, chưa thấy “những yếu tố dân chủ và chủ nghĩa xã hội”, hay chưa thấy “dòng văn hóa thuộc về nhân dân” như cách nói của V.I. Lênin về văn hóa ở những thời kỳ trước cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách nhìn nhận vấn đề vẫn có phần đơn giản, như gắn tính chất văn hóa Việt Nam với những kiểu tổ chức xã hội, với thể chế chính trị mà chưa nhìn nhận những giai đoạn phát triển của văn hóa theo những quy luật nội tại của nó. Vấn đề ở đây là: Đề cương phân kỳ văn hóa và xác định tính chất của văn hóa chủ yếu dựa trên cơ sở tổ chức xã hội về mặt chính trị và nền kinh tế được tổ chức trên nền tảng chính trị của xã hội ấy. Dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử tương ứng với mỗi triều đại chưa được nói đến như văn hóa Lý - Trần, Lê, Nguyễn, v.v.. Đánh giá về tính chất của văn hóa Việt Nam hiện tại, chỉ ra những âm mưu về văn hóa của chính quyền cai trị và thực dân Pháp, phát xít Nhật và nêu những giả thuyết về tương lai của văn hóa Việt Nam, Đề cương hoàn toàn xuất phát từ góc độ chính trị của vấn đề. Những kết luận như “văn hóa Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản” chưa chặt chẽ về mặt lập luận, nhưng cũng là điều có thể hiểu được. Đây là những kết luận căn cứ trên những tiêu chí chính trị - xã hội của một thời đại, trên những biểu hiện bề nổi của văn hóa Việt Nam, bởi văn hóa hợp pháp, thứ văn hóa được bảo trợ và khuyến khích đúng là đã mang những biểu hiện như vậy. Song mặt khác, những dòng chìm, những mạch ngầm của văn hóa dân tộc mang ý nghĩa tích cực cũng chưa được ghi nhận. Sau này, trong Mấy nguyên tắc lớn đồng chí Trường Chinh nói rõ hơn vì sao lúc đó, Đề cương chưa thể nói rộng hơn, sâu hơn về những mặt này nhưng lại phải công khai, trực tiếp khẳng định tính chất của văn hóa Việt Nam, vạch trần những hậu quả tai hại của chính sách văn hóa nô dịch của Pháp Nhật, kêu gọi thành lập mặt trận văn hóa chống lại xu hướng này: “Dưới quyền thống trị của đế quốc Pháp, văn hóa Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tai hại là do nó bị nô dịch và chia rẽ, phát triển không đều; thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và dân tộc thống nhất”, “có xu hướng Pháp hóa hay Nhật hóa đến nỗi có khi mất cả bản sắc tốt đẹp của dân tộc”1. Những chính sách văn hóa công khai của Pháp - Nhật, dù ở góc độ nào cũng chỉ gây hại cho văn hóa dân tộc. Trong luận điểm này, do tính chất và hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, khó có thể tìm thấy một thái độ nào khác ngoài sự phủ định quyết liệt. Hồi ký của một số nhà hoạt động văn hóa thời kỳ đó đã kể lại rằng chính sách văn hóa của Pháp - Nhật lúc bấy giờ, nhất là tuyên truyền văn hóa ngu dân, chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng, thuyết Đại Đông Á... không phải là không tạo ra những lầm lạc bởi sự ngộ nhận trong đội ngũ những nhà văn hoạt động xã hội. Quan điểm của Đề cương hết sức rõ ràng đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nhận thức của một số người, nhất là “thuyết văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”. Do những điều kiện còn phải hoạt động bí mật mà bản Đề cương chưa thể nói rõ hơn nhiều nội dung cụ thể của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới, nhưng những cơ sở mang tính quyết định về nền văn hóa mới được xây dựng trên một cơ sở kinh tế, một phương thức xã hội được tổ chức theo những nguyên tắc mới đã được xác lập. Nói như Giáo sư Đặng Thai Mai thì

_____________

1. Một chặng đường văn hóa, Sđd, tr.22.
dựa trên nền tảng này mà Văn học khái luận của ông đã phân tích, lý giải, giới thiệu nhiều vấn đề của văn học theo tinh thần mácxít này. Bản chất xã hội của văn học, rộng hơn là của văn hóa được chỉ ra từ nguồn gốc, từ những quan hệ máu thịt của nó với đời sống và vai trò, vị trí quan trọng của nó tham gia vào công cuộc cải tạo xã hội. Nó hoàn toàn không phải là thứ tháp ngà của nghệ sĩ, muốn thoát ly thực tế, chỉ để theo đuổi những ước vọng cá nhân như nhiều người đã ngộ nhận do sự bế tắc về sự nhận đường. Một điều đáng chú ý nữa là trong hoàn cảnh xã hội như thế (trong nước là ách đô hộ của Pháp - Nhật, tình hình quốc tế là chiến tranh thế giới đang diễn ra), nhưng Đề cương đã nói đến “những ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố vượt qua hết mọi trở lực để nảy nở (văn nghệ bất hợp pháp)”. Quan điểm biện chứng hướng đến tương lai mang tính dự cảm sáng suốt của Đề cương đã được chính lịch sử chứng minh nên sức hấp dẫn bởi cách đặt vấn đề mới mẻ, căn cứ trên những điều kiện chính trị, xã hội cụ thể là cơ sở cho những phân tích đầy sức thuyết phục của tác giả.
c) Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam: Phần này nêu ra 5 nội dung lớn, mang ý nghĩa quan trọng về một cuộc cách mạng văn hóa sẽ diễn ra trong tương lai. Đó là thái độ của Đảng đối với cuộc cách mạng tinh thần. Đề cương khẳng định: cuộc cách mạng văn hóa rất cần cho một cuộc cách mạng xã hội, nó sẽ xảy ra khi cuộc cách mạng xã hội nổ ra và tất yếu phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, những phương thức tổ chức của nền văn hóa mới bây giờ chỉ là “dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”. Lần đầu tiên và cũng mang tính hệ thống hơn cả, Đảng khẳng định trên “mặt trận” văn hóa, không phải và không thể làm một cuộc “cải cách văn hóa” mà phải là một cuộc “cách mạng” và cũng cần tận gốc, triệt để như cuộc cách mạng xã hội. Sau này, trong Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh trình bày rõ hơn, đầy đủ hơn vấn đề kế thừa di sản văn hóa dân tộc, đánh giá di sản văn hóa dân tộc và mục tiêu cụ thể cũng như nội dung của một nền văn hóa mới mang tính chất dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Văn bản khẳng định tầm quan trọng của cách mạng văn hóa ở chỗ nó làm nhiệm vụ “cải tạo xã hội”, góp phần xây dựng một xã hội mới, theo những nguyên tắc tổ chức và tính chất mới nên nó phải là “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, chỉ có “dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển” và chỉ có như vậy, văn hóa Việt Nam mới có thể “tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới”. Quan niệm này, về mặt văn hóa, hoàn toàn mang quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tuy không nói ra bằng lời nhưng thấm đẫm tinh thần về mô hình và mối quan hệ của một hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Khi xem xét các quan hệ kinh tế - xã hội và xác định tính chất của mô hình kinh tế - xã hội và những hình thái ý thức xã hội được xây dựng trên cơ sở của các quan hệ kinh tế - xã hội, Mác đã khẳng định tuy có những biểu hiện không hoàn toàn giống nhau ở nơi này hay nơi kia, nhưng trên những nét lớn nhất, những đặc điểm dễ nhận thấy nhất thì nhân loại đã và sẽ trải qua 5 hình thái tổ chức kinh tế - xã hội là nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội ấy lại nảy sinh ra những hình thái tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng (mà văn hóa là một trong những hình thái ý thức ấy) tương ứng với nó. Do vậy tính chất “dân chủ” hay “xã hội chủ nghĩa” của văn hóa mới mà Đề cương nói đến ở đây chính là mô hình văn hóa hoàn toàn mới theo xu hướng mácxít, tính chất của nền văn hóa ấy được xác định trên cơ sở tổ chức kinh tế - xã hội mới, nói cụ thể hơn là thuộc một chế độ xã hội được tổ chức sau khi cuộc cách mạng dân chủ nhân dân hoàn thành, bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên bang Xôviết.
Đề cương cũng nêu ra ba phương châm lớn (văn bản gọi là ba nguyên tắc) của cuộc “vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này” là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa, ở mỗi mục đều có giải thích rõ nội dung cơ bản của phương châm đó là gì. Dân tộc hóa là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”; đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”; khoa học hóa là “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”. Ba nguyên tắc lớn này phải thắng trong cuộc đấu tranh chống lại “những xu hướng bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.”; đồng thời cũng chống cả “xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”. Rõ ràng, ba nội dung, ba phương châm, ba nguyên tắc này đã vạch ra những đường hướng cơ bản cho một nền văn hóa mới ở mục tiêu phải đạt đến, tính chất phải có và cả những nội dung cơ bản của nó mà mục đích chính trị là tham gia trực tiếp vào một cuộc cách mạng xã hội đang chuẩn bị đến thời kỳ cao trào. Lúc này vấn đề lựa chọn chỗ đứng, lập trường và thái độ được đưa lên hàng đầu. Đề cương đặt vấn đề ba phương châm, thực chất là ba tính chất, là gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học như ba trụ cột cơ bản, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển. Sau này, khi đã giành được chính quyền, Đảng đã nói rõ hơn thái độ của mình trong lĩnh vực văn hóa là phải gắn bó chặt chẽ với đời sống dân tộc, với truyền thống di sản của ông cha, gắn bó với đời sống nhân dân, phục vụ nhân dân và tất cả thái độ tiếp cận từng vấn đề, cả trong tiếp nhận di sản, trong nghiên cứu khoa học hay sáng tạo thì tư tưởng vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn của một nhãn quan khoa học vẫn là những nguyên tắc quan trọng nhất. Hướng về đại chúng, dân tộc là hướng đến đất nước, nhân dân, đó là mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội mà Đảng đang kêu gọi. Tính chất cứu quốc của Đề cương bộc lộ rất rõ ở những nguyên tắc này. Nếu chỉ nhìn nhận văn bản như là sự chuẩn bị trong đêm trước của cuộc cách mạng xã hội đã thấy tính chất thực tiễn và khoa học của cách tiếp cận vấn đề mà nếu nhìn lại lịch 80 năm ra đời và tác động đến đời sống của những quan điểm văn hóa này mới thấy hết tầm nhìn xa trông rộng của những tư tưởng lớn về văn hóa. Và ở đây tính khai phóng của Đề cương cũng cần được nhận thức một cách đầy đủ. Đó là tinh thần cốt lõi của văn bản quan trọng này.
Không phải là một văn bản nghiên cứu mà là một đề cương cho một cuộc vận động, đề cương hành động mà cái đích của nó là một cuộc cách mạng văn hóa trên cơ sở gắn với một cuộc cách mạng xã hội, không nhắm vào mục tiêu “cải cách văn hóa” mà là “cách mạng văn hóa”, Đề cương đã nêu ra những “nhiệm vụ cần kíp” của những nhà văn hóa mácxít trong thực tiễn là bằng mọi cách “chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái hóa, nô dịch, văn hóa ngu dân và văn hóa phỉnh dân” để “phát huy văn hóa dân chủ”, trong đó “tranh đấu về học thuật, tư tưởng” (các trường phái triết học sai lầm “có ảnh hưởng tai hại” như triết học Khổng, Mạnh, chủ nghĩa duy tâm của Đềcác, Bécson, Căng, Nitsơ v.v. và phải khẳng định được vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đấu tranh về “tông phái văn nghệ”, làm cho “xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”, về tiếng nói, chữ viết, phối hợp trên các lĩnh vực bí mật và công khai, tuyên truyền, xuất bản, tổ chức các nhà văn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, v.v.. Tính chất trực diện, cách thức vận động và những nội dung được nêu ra rất cụ thể. Như đã trình bày ở phần đầu, do quan niệm mà các lĩnh vực tư tưởng, học thuật, sáng tác văn nghệ được Đề cương nêu lên hàng đầu. Ở phần cuối này, những lĩnh vực ấy cũng được nhắc lại, trong đó nêu yêu cầu đấu tranh về trường phái, xu hướng (trong văn bản gọi là tông phái) phải được đặt lên hàng đầu, phải giải quyết từ cơ sở tư tưởng, cơ sở triết học làm nền tảng cho những học thuyết, trường phái ấy. Mục tiêu chính trị được đặt lên hàng đầu nên trong những nội dung được đề cập đến ở đây những vấn đề ấy cũng được đặt ở vị trí trọng yếu nhất. Trong đời sống văn chương bấy giờ, sự khủng hoảng, bế tắc của các trường phái văn học công khai đã bộc lộ rõ và nói như Nguyễn Tuân sau này là “nguy cơ của cả một nền văn học” đã bày ra trước mắt. Chiến tranh, khủng hoảng xã hội đã làm cho văn học đánh mất dần đi những giá trị tích cực vốn có của nó nên Đề cương đặt vấn đề đấu tranh với những quan điểm duy tâm, siêu hình, những xu hướng thần bí, bế tắc trong văn chương, đấu tranh về tông phái văn nghệ là hoàn toàn căn cứ vào tình hình thực tiễn của đời sống văn học - một phương tiện có tác động khá trực tiếp đến đời sống tinh thần của xã hội.
3. Đề cương, sau 80 năm, những điều cần tiếp tục bổ sung và phát triển
Là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về lĩnh vực văn hóa, có thể nói rằng những định hướng lớn về một nền văn hóa cần có, phải có trong tương lai, khi mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ chưa thành công, đã được hình thành trên những phương hướng, nội dung quan trọng nhất. Nhìn nhận nền văn hóa ấy phải được xây dựng trên cơ sở của một hình thái kinh tế - xã hội mới, do Đảng lãnh đạo, phải trở thành một “mặt trận” mà người cộng sản phải nắm lấy, lãnh đạo và bắt nó phục vụ cho cuộc cách mạng xã hội là một bước tiến về nhận thức của Đảng về văn hóa. Trong hoàn cảnh bấy giờ, đưa ra được những vấn đề này, biến nó thành tư tưởng để vận động cho một nền văn hóa mới, chưa có hoặc chính xác hơn mới chỉ là những mầm, những nụ, nhưng đã chứng tỏ sức sống của nó là một sáng tạo của Đảng, bởi chỉ có nêu ra được những hướng đi như thế mới có khả năng tập hợp được lực lượng và Đề cương trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận văn hóa cứu quốc. Cần phải nhìn thấy tính chất cứu quốc của đề cương văn hóa mới này, nhận thức được tính chất tiên phong, mở đường của nó cho các văn nghệ sĩ gắn cuộc đời cầm bút của mình với dân tộc, nhân dân mới thấy hết được tầm nhìn mang tính chiến lược của Đảng không chỉ đối với cuộc cách mạng xã hội trước mắt mà còn là sự chuẩn bị cho việc xây dựng một nền tảng tinh thần mới cho xã hội tương lai. Không nên bó hẹp trong những câu chữ mà cần nhìn nhận những xu thế mới với tinh thần cởi mở và sáng tạo vì những định hướng suy cho cùng cũng chỉ là xác định những đường hướng cơ bản chứ không phải là những nguyên lý cứng nhắc, gò bó, vì như thế là trái với tinh thần biện chứng, với quan điểm tiếp cận vấn đề của chính văn bản này.
Coi văn hóa là một mặt trận và sức sống của nó chỉ có thể được khẳng định trong những thử thách của đời sống, Đề cương đã hơn một lần nhấn mạnh đến sự cần thiết, tính chất “cách mạng”, “mới” của nền văn hóa đi liền với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Và chỉ có hoàn thành cuộc cách mạng này thì cách mạng xã hội mới được coi như thành công. Trong những năm tháng ấy, đánh giá về vai trò to lớn và sự cần thiết của văn hóa với đời sống xã hội là một bước tiến lớn về nhận thức của Đảng đối với văn hóa dân tộc.
Những phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng, cho đến tận bây giờ vẫn chứng tỏ tính chất đúng đắn của chúng trong đời sống. Trải qua bao thăng trầm, biến động, con đường trở về với nhân dân, dân tộc, gắn bó máu thịt với cuộc sống của nhân dân mới là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho văn hóa dân tộc phát triển.
Sau 80 năm nhìn lại, không thể không nhận thấy những khiếm khuyết của Đề cương, như trong việc xác định phạm vi đối tượng, lĩnh vực văn hóa, những nét đặc thù của khái niệm cũng như trong đánh giá di sản, xác định tính chất hoặc phân kỳ lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa dân tộc, v.v.. Điều ấy hoàn toàn có thể hiểu được bởi trong những điều kiện hoạt động bất hợp pháp, thiếu thốn tư liệu, mặt bằng lý luận còn thấp, tính chất của văn bản,... đã không cho phép tác giả đi sâu vào những vấn đề chuyên môn cụ thể. Mặt khác, cũng phải nhận thấy đây là một bản đề cương, một chương trình, kế hoạch hành động mang tính chất cương lĩnh của một tổ chức chính trị ở một lĩnh vực vốn rộng về phạm vi, phong phú về nội dung, khó có quan điểm thống nhất ngay cả với những nhà chuyên môn, phức tạp về cách tiếp cận và quan điểm đánh giá... thì những nét lớn nhất của Đề cương, cho đến nay vẫn giữ được tính đúng đắn về mặt khoa học và tính thực tiễn. Đó là một thành công, một đóng góp của Đảng đối với văn hóa dân tộc. Lướt qua những giai đoạn phát triển, đổi thay trong 80 năm qua, nhìn lại những quan điểm lớn nhất của Đảng về văn hóa mới thấy hết những minh triết của cách tiếp cận vấn đề, tính thực tiễn và khoa học của những luận điểm. Bao trùm lên tất cả là tính chất cách mạng, thái độ nhất quán và những nguyên tắc của Đảng về một nền văn hóa mới, được định hướng ngay từ khi nó chưa được xác lập, chưa thật rõ hình hài nhưng những cái mới của nó đã hé lộ, sức sống của nó ngay từ những buổi đầu tiên đã được khẳng định. Tinh thần khai phóng, phục hưng văn hóa dân tộc này sau tháng 8/1945 được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra trong luận điểm “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Và thực tế của đất nước từ đó đến nay đã luôn chứng minh chân lý ấy.
Nếu coi Đề cương như là Cương lĩnh thứ nhất của Đảng về văn hóa thì Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước như những cương lĩnh mới về văn hóa của Đảng, vì những tư tưởng ấy vừa tiếp nối, vừa phát triển nhiều luận điểm quan trọng của Đề cương văn hóa 1943. Đồng thời, cũng không thể không ghi nhận những điều chỉnh, bổ sung cả về lý luận và thực tiễn của những văn kiện này. Chẳng hạn, trong việc đánh giá và tiếp nhận di sản, Đảng đã đề xuất nhiều luận điểm mới bổ sung cho Đề cương để phù hợp với yêu cầu mới. Hay như quan điểm về đại chúng đại chúng hóa cũng được xem xét biện chứng hơn. Một trong những khiếm khuyết của quan điểm chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiều phong trào văn hóa suốt mấy chục năm qua theo phương châm này là chưa đánh giá đúng mức vị trí và vai trò của tinh hoa văn hóa và giới tinh hoa cũng như vai trò của văn hóa đại chúng. Khi giải quyết quan hệ này, có lúc, có nơi đã bị rơi vào góc nhìn đơn giản hóa các mối quan hệ hoặc đánh giá nhiều vấn đề thực tiễn theo quan điểm số đông chứ không phải từ góc nhìn khoa học. Gần đây xu hướng chạy theo thỏa mãn nhu cầu giải trí của đại chúng, đến phong trào bề nổi mà ít chú ý đến tính chuyên nghiệp hay những giá trị bền vững đã gây ra những tác hại cho văn hóa dân tộc đã được chỉ ra và đang được điều chỉnh. Xu hướng cào bằng, hành chính hóa hoặc xây dựng những mô hình văn hóa ở các vùng miền khác nhau theo một tiêu chí giống nhau đã làm ảnh hưởng đến sự đa dạng và bản sắc văn hóa của các vùng miền... cũng cần được khắc phục. Vấn đề quan trọng nhất trong xây dựng và phát triển văn hóa bền vững là vấn đề con người cũng phải được xem xét đa chiều hơn, gần với bản thể hơn. Mấy chục năm nay chúng ta đề cao con người chính trị, con người đạo đức, con người nghĩa vụ, mà chưa chú ý đúng mức đến con người bản thể, con người tự nhiên là một nhận thức chưa đầy đủ về con người. Mà một khi nhận thức chưa đúng về đối tượng sẽ khó có thể hoạch định những chính sách cho phù hợp. Cũng như vậy, vấn đề dung hợp, cộng sinh, đa bản sắc của văn hóa vùng miền cũng chưa được luận giải một cách đầy đủ. Bởi vậy, cho đến ngày nay vẫn cần luận giải thêm và có những điều chỉnh khi xử lý bản thân những vấn đề dân tộc, khoa học, đại chúng, con người và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội khác trong quá trình mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa. Văn hóa vừa mở đường để một quốc gia vững vàng bước vào quá trình toàn cầu hóa, vừa là hồn cốt của một dân tộc, quốc gia bảo đảm cho quá trình ấy thành công. Trong công cuộc nhịp bước cùng thời đại có vai trò rất lớn của văn hóa.
 
NGUYÊN TẮC
DÂN TỘC HÓA, ĐẠI CHÚNG HÓA VÀ KHOA HỌC HÓA TRONG “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM”: TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
GS.TS. LÊ HỒNG LÝ)
Từ sự ra đời lịch sử của Đề cương văn hóa trong kháng chiến...
Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943 trong bối cảnh cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng chống phát xít Nhật và thực dân Pháp đang ở giai đoạn đấu tranh khốc liệt. Một mặt, chính sách ngu dân để cai trị của thực dân Pháp đã kéo dài gần một thế kỷ muốn dân ta quên lãng những giá trị văn hóa của dân tộc. Mặt khác, các chủ trương của đế quốc nhằm ru ngủ những trí thức, văn nghệ sĩ, muốn đưa họ sa đà vào lối sống vật chất và sự lãng mạn tinh thần, bi quan, bế tắc chôn vùi vào làn khói thuốc phiện, cô đầu..., mà quên đi sự mất nước trong tay kẻ xâm lược, sự nô dịch của thực dân, đế quốc. Làm họ quên đi truyền thống văn hóa và lịch sử dân tộc, mất phương hướng, chỉ biết đến nước mẹ Pháp đem văn minh đến khai phá cho người Việt, còn mọi thứ của dân tộc là lạc hậu, cổ hủ, dã man, không văn minh... Rồi một nước Nhật đế quốc với tham vọng Đại Đông Á, thuần chủng da vàng... thống lĩnh thế giới.
Chính vì thế, “năm 1943, Đảng ta đưa ra bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên)

_____________

) Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
vào tháng 2/1943 nhằm thức tỉnh dân tộc và vạch đường hướng cho cuộc cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đề cương văn hóa đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình là ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho một lớp trí thức, văn nghệ sĩ còn đang bế tắc, phân vân trước thời cuộc, thức tỉnh niềm tự hào dân tộc và giá trị dân tộc, vùng lên để lấy lại nhân phẩm của mình, bảo vệ văn hóa dân tộc vì sự phát triển của quốc gia, làm cho cuộc kháng chiến của đất nước mang tính chính nghĩa và đầy đủ ý nghĩa nhân văn. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến. Văn hóa được coi như một mặt trận, một động lực và mục tiêu của cuộc kháng chiến. Sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đề cương văn hóa từ lý luận đến thực tiễn đã đồng hành cùng sự nghiệp kháng chiến của dân tộc, thúc đẩy toàn thể nhân dân lao vào cuộc trường chinh chống đế quốc Mỹ. Nó thúc đẩy tinh thần mỗi con người Việt Nam để “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, huy động tất cả vật chất, tinh thần, lịch sử của dân tộc, đem “bốn mươi thế kỷ cùng ra trận” làm nên một đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước đến hôm nay. Tạo nên một sự nghiệp xây dựng văn hóa mới theo phương châm dân tộc, đại chúng, khoa học đã tạo tiềm lực cho sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc và mỗi bước thắng lợi của kháng chiến lại tạo tiền đề cho sự phát triển văn hóa”1.
Trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thiếu thốn về các nguồn tư liệu về lý luận, điều kiện học tập, tham khảo trong việc nghiên cứu, lại đang ở trong tình trạng cấp bách của việc giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, số phận dân tộc trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, độc lập tự do là nhu cầu quan trọng nhất trong khi ấy, mà Đảng lại đưa ra được những vấn đề dân tộc, đại chúng và khoa học. Những nguyên tắc mà cho đến hôm nay giá trị về tầm nhìn và tính thời sự của Đề cương càng được khẳng định một cách mạnh mẽ. Mặc dù, giai đoạn này, tính chính trị của những nguyên tắc đã nêu được quan tâm coi trọng nhiều hơn, do bối cảnh lịch sử khi đó vì mục đích giành chính quyền, giải phóng dân tộc. Đúng như nhận xét của đồng chí Trường Chinh trong dịp kỷ niệm 40 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời (1943-1983):

_____________

1. Xem Đỗ Kim Cương: Từ “Đề cương văn hóa 1943” đến văn hóa, văn nghệ thời kỳ đổi mới và hội nhập, Tạp chí Tuyên giáo, ngày 8/11/2021.
Vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam... Nhưng Đề cương văn hóa đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của Việt Nam”1. Vì thế, ba nguyên tắc trong Đề cương lúc này chủ yếu hướng đến:
  • Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hoá Việt Nam phát triển độc lập).
  • Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
  • Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Song, từ những nguyên tắc đó, càng về sau này, trong quá trình phát triển của đất nước và thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng, cho thấy thực sự Đề cương văn hóa là một tầm nhìn xa trông rộng về văn hóa Việt Nam mà đến hôm nay vẫn còn nguyên những giá trị của nó. Từ rất sớm, Đề cương đã khẳng định vai trò và vị trí của nó trong đường lối chính trị của một đảng cầm quyền xuất phát từ thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, nó cũng chỉ ra tầm nhìn xa và tính bền vững đối với giai đoạn lịch sử sau này của đất nước, làm cho giá trị của Đề cương tồn tại bền bỉ và có ý nghĩa thực tiễn đối với đất nước.
Đến sự tồn tại bền vững của ba nguyên tắc trong Đề cương văn hóa trong tình hình mới
Giá trị cốt lõi của Đề cương thể hiện ở ba nguyên tắc bất di bất dịch: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa là kim chỉ nam cho đường lối văn hóa, văn nghệ của nước ta cho đến ngày nay, khi chúng ta đang bước vào công cuộc phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem xét các nguyên tắc đó của Đề cương trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt từ quan điểm của Đảng về văn hóa ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh hơn trong bối cảnh mới. Điều đó thể hiện ở trong các nghị quyết của Đảng trong suốt thời gian qua, điển hình là Nghị quyết

_____________

1. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.3, tr.509.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Theo chúng tôi, đây là Nghị quyết bản lề của giai đoạn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước. Tiếp sau đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đánh giá văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh, là động lực quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ nhận thức về văn hóa thông qua các nghị quyết trên đây của Đảng, chúng ta thử đặt các nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa của Đề cương văn hóa ở thời hiện tại trong bối cảnh hội nhập với quan điểm văn hóa quốc tế mà cụ thể nhất là qua nội dung các công ước về văn hóa của UNESCO. Đó là ba công ước cơ bản: Công ước 1972 về việc bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới; Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể và Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa. Thông qua những công ước này, chúng ta có thể thấy các nguyên tắc của Đề cương văn hóa được thể hiện như thế nào trong bối cảnh mới.
Nguyên tắc dân tộc hóa hiện nay của chúng ta thể hiện ở việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc chung sống trên mảnh đất Việt Nam. Cùng với những vấn đề chính trị của dân tộc như quyền tự quyết, vai trò, vị trí bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới, thì văn hóa dân tộc được đặt lên hàng đầu đối với tổ chức quốc tế này. Nếu như chúng ta đề cao việc bảo vệ, khai thác văn hóa dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của đất nước, trong đó là việc giữ gìn, phát huy và đưa văn hóa dân tộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử, thì vấn đề này càng thấy rõ ràng khi bước vào hội nhập quốc tế trong những năm đổi mới, khi tham gia vào các công ước của quốc tế, vai trò của dân tộc càng được mở rộng và coi trọng.
Theo công ước năm 1972 xét rằng: các công ước, khuyến nghị và quyết định quốc tế hiện có đối với các tài sản văn hóa và tự nhiên chứng minh tầm quan trọng đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, của việc bảo tồn các tài sản độc nhất và không thể thay thế được, mặc dù chúng thuộc về dân tộc nào. Xét rằng: một số tài sản của di sản văn hóa và tự nhiên có một ý nghĩa đặc biệt cần thiết phải bảo tồn như là một yếu tố của di sản thế giới của toàn thể nhân loại (Công ước 1972).
Còn Công ước 2003 thì xét đến tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể như là động lực chính của đa dạng văn hóa và là một bảo đảm cho sự phát triển bền vững, như đã được nhấn mạnh tại Khuyến nghị của UNESCO về Bảo vệ văn hóa truyền thống và dân gian năm 1989, trong Tuyên bố toàn cầu của UNESCO về Đa dạng văn hóa năm 2001, và trong Tuyên bố Istanbul được Hội nghị bàn tròn các Bộ trưởng Văn hóa lần thứ ba thông qua năm 2002. Cộng đồng quốc tế đã ý thức về nguyện vọng và mối quan tâm chung của nhân loại về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Ghi nhận rằng các cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân bản địa đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra, bảo vệ, duy trì và tái sinh di sản văn hóa phi vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Xét đến vai trò tối quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể là yếu tố đưa nhân loại xích lại gần nhau hơn và bảo đảm sự giao lưu và hiểu biết lẫn nhau giữa mọi người (Công ước 2003).
Như vậy, từ khởi đầu xuất phát của Đề cương, nguyên tắc dân tộc chủ yếu hướng tới việc “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập” thì ngày nay, vấn đề này đã được mở rộng để đưa đất nước ta hội nhập quốc tế với một tư cách hoàn toàn khác, với vị thế vững vàng, to lớn. Tham gia các công ước này là dịp chúng ta khẳng định được nguyên tắc dân tộc từ Đề cương văn hóa đề ra, đồng thời cũng là sự cập nhật với xu thế chung của thế giới về coi trọng vai trò của văn hóa trong tình hình mới. Vì thế, không những chúng ta có rất nhiều di sản văn hóa dân tộc được thế giới vinh danh, thu hút sự quan tâm của thế giới, góp phần vào di sản của nhân loại. Từ đó thu hút sự đầu tư của các công ty du lịch trên thế giới, quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam... Còn về mặt tổ chức, chúng ta đã tham gia đắc lực vào các hoạt động quốc tế liên quan đến vấn đề này như Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc, các hội đồng chuyên môn của UNESCO như: Năm 2021 được bầu là thành viên Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025 với số phiếu cao nhất; năm 2022 được bầu là thành viên Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2003 nhiệm kỳ 2022-2026...
Gần đây nhất, ngày 10/2/2023, Việt Nam được tín nhiệm bầu vào vị trí Phó Chủ tịch Ủy ban, đại diện cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Công ước về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa (Công ước 2005) của UNESCO... Những kết quả này đã chứng tỏ những đóng góp rất tích cực của chúng ta được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong thời gian qua. Cùng lúc đó, số lượng các di sản thiên nhiên thế giới và di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại và các di sản cần được bảo vệ khẩn cấp mà UNESCO ghi nhận của nước ta là những minh chứng hùng hồn về sự hội nhập quốc tế của Việt Nam và mở rộng tầm của nguyên tắc dân tộc từ Đề cương văn hóa.
Nguyên tắc khoa học hóa nếu trước đây chỉ là “chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ” thì trong bối cảnh mới đã được mở rộng nâng cao lên ở một mức độ khác. Ngày nay, mỗi một hiện tượng hay một di sản văn hóa dù là vật thể hay phi vật thể đều được nghiên cứu một cách chi tiết, khoa học theo bài bản và những chuẩn mực quốc tế yêu cầu. Những người thực hiện nguyên tắc này đều là các chuyên gia, nhà nghiên cứu được đào tạo bài bản và thực hiện những quy trình nghiên cứu theo quy chuẩn nghiêm ngặt, còn những người quản lý, ngoài việc được đào tạo chuyên môn là những người hiểu biết, nắm bắt được tình hình thực tiễn. Nguyên tắc khoa học hóa ngày nay được thực hiện theo quy trình nghiên cứu theo các quy định quốc tế, một quy trình mà như Công ước 2003 đã ghi rõ trong mục bảo vệ di sản phi vật thể bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này. Trên cơ sở nguyên tắc khoa học hóa theo tiêu chuẩn quốc tế khi nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam, chúng ta đã có Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua năm 2001 và sửa đổi, bổ sung năm 2009. Đây là đạo luật chủ đạo, cập nhật những công ước quốc tế cũng như tình hình thực tế ở Việt Nam về việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, thể hiện sự tôn trọng các công ước quốc tế của Việt Nam; đồng thời cũng là sự nhìn nhận một cách khoa học nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh mới. Ở đạo luật này, những vấn đề xác định giá trị, quy định nghiên cứu, bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa của đất nước đã được làm rõ và trở thành tính pháp quy cho việc nghiên cứu khoa học đối với tất cả các di sản văn hóa ở Việt Nam.
Thực tế từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập năm 1945, việc trước tiên mà Nhà nước non trẻ này làm theo nguyên tắc khoa học đối với văn hóa là những quy định, chỉ thị về giữ gìn và bảo vệ tất cả những di sản văn hóa của cha ông để lại, nhằm tránh sự thất thoát, hư hỏng, mất mát. Sau hoà bình lập lại, công cuộc nghiên cứu khoa học đã được tiến hành thông qua những cơ quan quản lý và nghiên cứu về văn hóa được thành lập ở trung ương và địa phương. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bên cạnh những văn nghệ sĩ với những sáng tác của mình phục vụ đắc lực cho cuộc trường chinh của dân tộc, thì những cơ quan nghiên cứu ở các viện, các trường đại học, đã làm được không ít những công trình sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến văn hóa truyền thống Việt Nam ở trong nước và quốc tế. Những công trình nghiên cứu văn hóa thời kỳ này một mặt khẳng định những truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; mặt khác chứng minh hùng hồn sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước, giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc để huy động sức mạnh tổng lực vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách ngoại xâm.
Nguyên tắc khoa học hóa của Đề cương càng được thể hiện rõ trong giai đoạn từ đổi mới đến nay. Hàng loạt những dự án điều tra, sưu tầm, nghiên cứu các di sản văn hóa được thực hiện từ năm 1986 đến nay là những minh chứng thuyết phục nhất cho nguyên tắc này. Đó là những dự án khai quật khảo cổ học lớn như Hoàng thành, Óc Eo..., những chương trình mục tiêu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, những Dự án, chương trình nghiên cứu do các trường đại học, viện nghiên cứu thực hiện thời gian qua đã góp phần tìm hiểu, lưu giữ, phổ biến các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người anh em sinh sống trên dải đất hình chữ S. Điều đáng chú ý là các hoạt động này được tiến hành rộng khắp trên toàn bộ không gian của cả nước, ở tất cả các dân tộc và trong tất cả các loại hình văn hóa khác nhau, mà không có sự thiên vị cho bất kể một dân tộc hay một loại hình văn hóa nào. Từ đây cho thấy tính khoa học và tính toàn diện của việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Nguyên tắc đại chúng hóa nếu khi Đề cương ra đời là: chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng, thì ngày nay nguyên tắc này đã được nhìn nhận đa chiều hơn, sâu sắc hơn rất nhiều. Trước hết, đó là sự tôn trọng nền văn hóa đa sắc tộc của các cộng đồng cư dân sinh sống trên đất nước Việt Nam, bất kể là thiểu số hay đa số. Thứ hai, đó là sự tôn trọng tính đa dạng của mỗi nền văn hóa tộc người, tôn trọng sự đa dạng các biểu đạt của mỗi nền văn hóa đó. Đúng như Công ước 2005 đã khẳng định, đa dạng văn hóa là một đặc tính của nhân loai; nḥ ạn tĥ ưc ŕ ăng̀ đa dang vạ n hŏ a lá di sà n chung củ a nhân loả i, cậ ̀n đươc tôn vinh vạ bà o v̉ ệ vi l̀ ơi ị ch cú a tẩ t cá mỏ i ng̣ ươi; ý th̀ ưc ŕ ă ng̀đa dạng văn hóa tạo nên một thế giới phong phú và đa dạng, gia tăng các lựa chọn, nuôi dưỡng khả năng và giá trị của con người, và vì vậy, đa dạng văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các cộng đồng, các dân tộc và các quốc gia (Công ước 2005). Thứ ba, sự tôn trọng tính chủ thể của mỗi nền văn hóa ấy, dù tộc người đó là ít người hay đông người. Không có sự áp đặt văn hóa của tộc người này lên trên tộc người khác, không có sự cao thấp về văn hóa, mà chỉ là những sự khác nhau, đa dạng, không còn việc “làm cho đồng bào miền núi tiến kịp đồng bào miền xuôi” về văn hóa như một thời gian còn có suy nghĩ ấu trĩ..., mà là sự bình đẳng và khai thác triệt để những truyền thống văn hóa của tất cả các tộc người vì một nước Việt Nam phồn thịnh và phát triển “xứng vai với các cường quốc năm châu”, đó mới là mục đích cao cả của nguyên tắc này. Hơn thế, sự tôn trọng văn hóa tộc người và tạo sự chủ động làm chủ vận mệnh của họ về văn hóa mới thực sự là cách làm cho họ biết trân quý và phát huy các giá trị của nó cho sự phát triển của đất nước. Thực tế thời gian gần đây việc người dân làm du lịch homestay ở các địa phương đã chứng minh điều đó, họ đã có điều kiện để phô diễn toàn bộ những giá trị văn hóa của mình cho du khách, khai thác những giá trị văn hóa ấy phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống tinh thần của mình. Đại chúng ở đây không phải là dung tục hóa, đồng nhất hóa các hiện tượng văn hóa và phổ cập nó cào bằng ở mọi nơi, mà là sự khai thác những sắc thái riêng của từng cộng đồng, từng nhóm người khác nhau tạo nên bản sắc của họ, bản sắc đó góp phần vào vườn hoa đầy hương sắc của văn hóa quốc gia. Đó mới là nguyên tắc đại chúng hóa đáng phải làm nhất. Từ những giá trị văn hóa dân tộc được nghiên cứu một cách khoa học, áp dụng vào thực tiễn để các chủ thể văn hóa tự quyết và tự xử lý những giá trị đó phục vụ cho bản thân mình thông qua những thực hành sinh hoạt hằng ngày của họ trong cuộc sống, tạo thành máu thịt họ thì những giá trị văn hóa đó mới được duy trì bền vững, trường tồn và được phát huy hết tiềm năng của nó. Bởi vì, nó xuất phát từ đại chúng và vì đại chúng mà nó tồn tại và phát triển, thiết nghĩ đó là nguyên tắc đại chúng được tồn tại sinh động nhất. Những lễ hội dân gian, những sinh hoạt nghệ thuật trình diễn, những thực hành tín ngưỡng, nghề thủ công, ẩm thực, tri thức dân gian và tất cả mọi truyền thống dân gian đó được tồn tại và phục vụ người dân, đó là nguyên tắc đại chúng cao nhất mà Đề cương văn hóa đặt ra cho chúng ta hôm nay.
*
*       *
Những phân tích trên đây cho thấy dù đã qua nhiều thời gian nhưng giá trị cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn giữ được nguyên giá trị, luôn mang tính thời sự và tầm nhìn của nó. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đô thị hóa và sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường, biến đổi khí hậu thì những giá trị văn hóa dân tộc, tính đa dạng và nhìn nhận vai trò chủ thể của người dân trên toàn thế giới càng ngày càng được coi trọng. Tri thức bản địa, văn hóa tộc người càng được coi trọng và cần được nghiên cứu một cách khoa học để khai thác hết tiềm năng đó cho sự phát triển bền vững của thế giới. Tất cả những thứ một thời được coi là man di, mọi rợ, lạc hậu, mê tín cần được các nhà nghiên cứu xem xét một cách khoa học để phục vụ cuộc sống. Vấn đề trở về với tri thức dân tộc, hoà mình với thiên nhiên, gần gũi nương theo thiên nhiên đang là việc được các nước từ văn minh đến “lạc hậu” nhìn nhận lại một cách nghiêm túc. Con người từ chỗ tìm cách chế ngự, bóc lột, phá hoại đến kiệt quệ môi trường tự nhiên để có được cuộc sống sung túc cho mình, ngày nay đã có cái nhìn khác bằng cách khai thác những tri thức văn hóa của mỗi tộc người một cách khoa học, đặt cuộc sống, vị trí của người dân lên trên hết, sống chậm lại cùng với tự nhiên để có một cuộc sống an bình, thanh thản. Đó chính là sự phát triển hay tiếp nối hoặc vận dụng phương châm dân tộc, đại chúng và khoa học mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đã chỉ ra từ 80 năm về trước.
Nhìn từ góc độ văn hóa, vấn đề dân tộc của chúng ta càng ngày càng được Đảng và Nhà nước chú trọng hơn bao giờ hết. Văn hóa dân tộc được coi trọng trong mọi vấn đề quốc sách của đất nước. Từ chỗ nhìn nhận các vấn đề chủ yếu trên nền tảng kinh nghiệm, đến nay tất cả các vấn đề dân tộc được xem xét một cách khoa học, bài bản bằng những cơ quan nghiên cứu, những đề tài, dự án, những ứng dụng thử nghiệm thực tế để tìm ra phương án tốt nhất. Tuy chưa phải thành công tất cả, song quy trình và ý thức nghiên cứu khoa học trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được chú trọng một cách nghiêm túc. Vấn đề đại chúng ở đây là việc nhìn nhận một cách khoa học vai trò chủ thể của người dân trong xã hội đương đại. Những chủ trương, đường lối, chính sách đưa ra được xem xét tính phù hợp, đáp ứng hay không cuộc sống của người dân, mà không còn là sự áp đặt hay vô cảm do không được xem xét, nghiên cứu một cách khoa học. Việc coi người dân là chủ thể đích thực của sự phát triển, lấy chất lượng cuộc sống của họ làm thước đo cho tất cả những hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội chính là tầm nhìn cao nhất của nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong đường lối của Đảng hiện nay từ Đề cương về văn hóa Việt Nam.
 

NGUYÊN TẮC “DÂN TỘC - ĐẠI CHÚNG - KHOA HỌC” TRONG “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY

NGUYỄN THỊ NGỌC MINH*
  1. Đặt vấn đề
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của hoàn cảnh cách mạng và thực tiễn lịch sử Việt Nam, Tổng Bí thư Trường Chinh đã thay mặt cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng soạn thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam. Sự ra đời của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 giống như ngọn đuốc soi đường cho đông đảo tầng lớp trí thức nhìn thấy con đường cởi trói tư tưởng của mình và tham gia vào cơn lốc cách mạng của dân tộc đang phát triển mạnh mẽ. Một trong những giá trị nổi bật là đã đề ra được ba nguyên tắc cơ bản, ba tính chất cơ bản của nền văn hóa mới: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Tròn 80 năm đã đi qua, bối cảnh trong nước và quốc tế đã có sự thay đổi nhưng ba nguyên tắc “dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa” của Đề cương thì vẫn nguyên giá trị.
  1. Nội dung ba nguyên tắc
“Dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” là ba nguyên tắc vận động để xây dựng nền văn hóa mới, được đề cương văn hóa nêu ra tại mục 4, phần “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam”1.

_____________

* Bảo tàng tỉnh Bình Dương.
1. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương: Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, t.III, tr.318-320.
Trước hết là nguyên tắc dân tộc hóa. Đề cương đã chỉ rõ tính chất của văn hóa Việt Nam hiện tại là thuộc địa nô dịch. Từ khi thực dân Pháp tiến hành công cuộc khai phá thuộc địa ở Đông Dương, chính quyền thuộc địa đã cổ súy cho tư tưởng thân Pháp, vong bản, ngăn cản những tư tưởng tiến bộ, không cho phép truyền bá vào Việt Nam, tuyên truyền tư tưởng đầu hàng, chủ nghĩa yêu nước hẹp hòi, mù quáng. Còn phát xít Nhật thì tuyên truyền tư tưởng “Đại Đông Á”, gây nên một quan điểm sai lầm ỷ lại vào Nhật... Từ sự phân tích trên Đề cương khẳng định, những thủ đoạn lừa bịp đó sẽ giết chết văn hóa Việt Nam. Vì vậy, nhất định phải chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập, thoát khỏi sự phụ thuộc vào văn hóa thực dân, phát xít, đề cao lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Tiếp theo là nguyên tắc đại chúng hóa. Với mục đích thống trị nhân dân ta, chính quyền thực dân phát xít chỉ phát triển văn hóa, giáo dục nhỏ giọt ở một bộ phận từng lớp trên của xã hội để phục vụ cho chính sách khai thác của chúng. Còn lại đông đảo quần chúng nhân dân vẫn bị kìm toả trong vòng bần cùng hóa và ngu dân hóa. Vì vậy, nhiều văn nghệ sĩ tầng lớp trên thời kỳ này chủ yếu sáng tác với nội dung xu nịnh thực dân, phát xít, hoài cổ, rời xa thực tế... Những điều này hoàn toàn xa lạ với đông đảo tầng lớp nhân dân nghèo khổ trong xã hội. Vì vậy phải chống lại những chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại, hoặc xa rời quần chúng nhân dân.
Về nguyên tắc khoa học hóa, cũng xuất phát từ chính sách văn hóa phản động của chủ nghĩa thực dân phát xít, những tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu được chúng dung dưỡng, như: cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm... Các hủ tục như ma chay, nạn bói toán, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề, dân đến hậu quả dân ta mù chữ, thất học. Trong khi đó một nền văn hóa tiến bộ cần phải có nền tảng khoa học thật vững chắc, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phát biểu: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Chính vì vậy cần phải chống lại những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ, có như vậy mới có thể vực dậy sức mạnh của dân tộc.
Có thể khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã đáp ứng tình thế cấp bách của lịch sử dân tộc, huy động lực lượng cho cuộc cách mạng có ý nghĩa sống còn của dân tộc. Ba nguyên tắc được nêu ra trong bản Đề cương chính là 3 khẩu hiệu hành động, thức tỉnh và soi đường cho đội ngũ trí thức, tập hợp họ dưới ngọn cờ của Đảng, của mặt trận Việt Minh, đã giúp họ thoát khỏi cơn hoang mang khủng hoảng, tìm thấy con đường phụng sự dân tộc, tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, “dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ/mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Sự dấn thân của đông đảo văn nghệ sĩ vào thực tiễn cuộc sống của quần chúng và cuộc chiến đấu của dân tộc đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn hóa bất hủ, có sức hiệu triệu đông đảo quần chúng vùng lên, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc1.
Như vậy, ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa được nêu trong Đề cương rõ ràng là sự trả lời đúng đắn và kịp thời cho các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm trọng đại của lịch sử. Và do khả năng đón đợi, tập hợp và đưa tất cả đội ngũ trí thức vào cách mạng, nó đã góp phần quan trọng vào thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945. Đồng thời góp phần tạo cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa kháng chiến - kiến quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như trong cuộc trường chinh chống Mỹ sau này.
3. Những giá trị của ba nguyên tắc đối với thời đại hiện nay
Từ sau bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, tư duy lý luận của Đảng về văn hóa ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh hơn, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước... Văn hóa thực sự là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là kết quả của tư duy lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thế kỷ XXI, chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy điểm tựa ở Đề cương là tinh thần coi trọng văn hóa, để hướng tới một thời kỳ phát triển mới - xem văn hóa không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của sự phát triển.

_____________

1. Xem Chử Thị Thu Hà: Suy ngẫm về ba nguyên tắc “dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 và sự vận dụng trong bối cảnh hiện nay, Thư viện số Đại học Văn hóa Hà Nội.
Trong nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc xác định nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng. Tính thống nhất và tính đa dạng phản ánh sâu sắc mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa dân tộc (quốc gia) Việt Nam và sắc thái văn hóa các dân tộc (tộc người), văn hóa địa phương. Bản sắc văn hóa kết tinh ở hệ giá trị văn hóa dân tộc (quốc gia), thấm sâu vào mọi hoạt động vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán, sinh hoạt cá nhân, mang diện mạo, trí tuệ, tâm hồn, phong cách của các dân tộc hay cộng đồng quốc gia - dân tộc và được tiếp nối, phát huy, phát triển trong các thời kỳ lịch sử. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy, người Kinh ở nước ta chiếm đa số (chiếm 85,3% dân số cả nước); 53 dân tộc còn lại có 14,123 triệu người (chiếm 14,7% dân số cả nước). Đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú và sinh sống thành cộng đồng, chủ yếu ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa với nhiều sắc thái văn hóa phong phú, đa dạng. Các dân tộc trên lãnh thổ nước ta dù tiếng nói, phong tục, tập quán khác nhau, nhưng đều là những bộ phận của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam, cùng chung lưng đấu cật, đoàn kết đấu tranh chống thiên tai, địch họa để dựng nước và giữ nước. Trên cơ sở “mẫu số chung” đó, những sắc thái văn hóa riêng biệt của từng dân tộc được định hình, phát triển và bổ sung cho nhau, tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam1.
Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đã tổng kết, đánh giá những kết quả to lớn đạt được cùng với những hạn chế, khó khăn và những vấn đề còn tiếp tục phải giải quyết. Từ những bài học kinh nghiệm được rút ra trong quá trình tổng kết thực tiễn ấy, Đảng ta đã có nhiều nhận thức mới về mặt lý luận làm cơ sở cho việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng - Cương lĩnh năm 2011. Đối với lĩnh vực văn hóa, từ quan điểm nhất quán về một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ”, Cương lĩnh năm 2011 và Nghị quyết số 33-NQ/TW,

_____________

1. Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, Đại hội VI, VII, VIII, IX, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019.
 
ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW), đã tiếp tục làm sâu sắc hơn nội dung, tính chất, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa, cũng như mối quan hệ giữa văn hóa với con người và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội1.
Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thời gian qua trên cả nước đã đạt được những kết quả nhất định. Có thể nói đây là sự tiếp nối và phát triển nguyên tắc xây dựng văn hóa dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa được đề ra trong Đề cương văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới. Giá trị dân tộc được đề cao, khi nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến hết năm 2018, Việt Nam có gần 3.500 di tích được xếp hạng quốc gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt, 12 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị đang được bảo quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng; gần 8.000 lễ hội được lưu truyền gắn với nhiều phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa ẩm thực, trang phục..., trong đó có nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng nhằm bảo đảm tính đa dạng, phong phú về sắc thái văn hóa của các vùng, miền trên cả nước. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế ngày càng được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Các loại hình, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây

_____________

1. Xem Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI: Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cập nhật ngày 9/6/2014.
dựng đời sống văn hóa” đã được biểu dương, lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước nói chung. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng; qua đó vai trò điều tiết của văn hóa tiếp tục được phát huy. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới, góp phần quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa, tiếp thu tinh hoa và các giá trị tiến bộ của văn hóa nhân loại để bồi đắp và xây dựng nền văn hóa Việt Nam1.
Trong bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao... Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới2.
Như vậy, nhiệm vụ xây dựng con người văn hóa của Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế chính là xây dựng những giá trị, chuẩn mực con người Việt Nam phù hợp và gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị văn

_____________

  1. Xem Đinh Giang: “Giá trị văn hóa với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực thực hiện khát vọng phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản, cập nhật ngày 29/8/2022.
  2. Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr.9.
 
hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại, như yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc1. Thông qua bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, có thể thấy rõ những giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang xây dựng, củng cố là những giá trị tiến bộ, nhân văn, kết hợp truyền thống với hiện đại và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần hướng tới một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Như vậy, trong bối cảnh mới, Đảng đã không ngừng đổi mới tư duy nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận về xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc; khơi dậy và phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa truyền thống và sức mạnh con người Việt Nam để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Kế thừa những thành tựu của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam cách đây 80 năm, Đảng đã từng bước áp dụng và hoàn thiện ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa để vận dụng vào thực tiễn phát triển văn hóa hiện nay.
*
*     *
Tóm lại, ra đời trong bối cảnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi vào giai đoạn cam go, kẻ thù tăng cường đàn áp, tuyên truyền mị dân, nhân dân chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột, Đảng phải lui về hoạt động bí mật, Đề cương không thể đề cập đến mọi lĩnh vực, mọi vấn đề của văn hóa. Dù mới chỉ sơ lược, nhưng Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề cập được những vấn đề cơ

_____________

1. Xem Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12/2021, tr.11.
bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện đó của cách mạng Việt Nam, trong đó tiêu biểu nhất là 3 nguyên tắc để xây dựng nền văn hóa mới.
Kế thừa những nguyên tắc về xây dựng, phát triển nền văn hóa mới Việt Nam được đề cập trong Đề cương, 80 năm qua, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới, làm sâu sắc thêm nội hàm, phạm vi các lĩnh vực thuộc văn hóa cũng như vai trò của văn hóa trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
TS. ĐẶNG THỊ MINH)
1. Giá trị của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Đề cương về văn hóa Việt Nam là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa thời sự và giá trị thực tiễn cao, đặc biệt đối với cách mạng, kháng chiến thời bấy giờ. Đề cương đã phân tích đúng đắn tình hình đời sống văn hóa dưới ách phát xít Nhật và thực dân Pháp, vạch rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa ngu dân của thực dân Pháp; chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam. Đề cương không chỉ sử dụng phương thức hoạt động văn hóa để thực hiện mục tiêu vận động chính trị, đã làm “thức tỉnh những trí thức, những văn nghệ sĩ đang bi quan, dao động, mất phương hướng thấy được lối thoát, muốn mình được giải phóng trước hết phải tự nguyện dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc và chính họ phải là lực lượng xung kích tham gia vào mặt trận văn hóa - tư tưởng”1 mà còn là sự chuẩn bị lý luận cho sự ra đời một nền văn hóa mới sau khi cách mạng thành công. Với chủ trương xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam với các đặc trưng: Dân tộc, đại chúng, khoa học, Đề cương về văn hóa Việt Nam kịp thời đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ nhân dân ta, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ hăng hái tham gia cách mạng.

_____________

) Học viện Hành chính quốc gia, Bộ Nội vụ.
  1. Phạm Mai Hùng: “Bối cảnh ra đời và ý nghĩa của Đề cương văn hóa năm 1943”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4/2003.
Đề cương về văn hóa Việt Nam có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm qua, vừa phát huy vai trò quan trọng của văn hóa, vừa khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do xây dựng và phát triển đất nước. Đề cương không chỉ viết về văn hóa hoặc chỉ có giá trị đối với lĩnh vực văn hóa cụ thể mà còn góp phần tạo nên cội nguồn, động lực cho sức mạnh tổng hợp của cách mạng, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam vừa có ý nghĩa lịch sử mang tính bước ngoặt của giai đoạn 1943-1945 đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, vừa có tầm nhìn như là sự khai phá mở đường, đặt nền móng vững chắc và đúng đắn cho toàn bộ quá trình tìm tòi, xây dựng hệ thống quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng về văn hóa. Đề cương về văn hóa Việt Nam có tác dụng định hướng cả về hướng đi, cách thức xây dựng và hoạt động nên có tác dụng lâu dài với cách mạng Việt Nam. Nhận thức sâu sắc ý nghĩa đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kiên định và không ngừng phát triển chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Những phương châm dân tộc, đại chúng và khoa học cho đến tận bây giờ vẫn chứng tỏ tính chất đúng đắn trong đời sống xã hội.
  1. Thực tiễn vận dụng, phát huy giá trị của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” và các nghị quyết về văn hóa trong tiến trình phát triển
Việc vận dụng, phát huy giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong thực tiễn, kế thừa và phát triển tư duy lý luận về văn hóa, chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đã được thể hiện trong tư tưởng chỉ đạo ở nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; được Nhà nước cụ thể hóa trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về văn hóa và triển khai trong các hoạt động văn hóa của toàn xã hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, với trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức và lối sống là một bước phát triển cao dựa trên nền móng Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Nghị quyết đã khẳng định, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục xác định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học...”2. Đảng ta luôn khẳng định con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Từ đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh mới, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục phát triển lý luận về văn hóa, nâng tầm quan điểm chỉ đạo khi khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng, tạo nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững: “Phát triển con người toàn

_____________

  1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, 2014, tr.48.
diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”1.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; các cấp, các ngành đã kế thừa, phát huy giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam, luôn bảo đảm được 3 nguyên tắc đó là dân tộc, đại chúng, khoa học và đã đạt được nhiều thành quả tích cực trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh mới: Phát triển văn hóa ngày càng gắn bó hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa từng bước được nâng cao; xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa. Nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, phát huy.
Hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được tăng cường, các cơ quan quản lý nhà nước đã chú trọng thể chế hóa, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy văn hóa phát triển, đến nay hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa nói chung và các lĩnh vực cụ thể của văn hóa nói riêng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tiễn. Hệ thống thiết chế văn hóa được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Thị trường văn hóa bước đầu được hình thành. Hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ngày càng chủ động hơn. Việt Nam đã phê chuẩn, tham gia và nội luật hóa hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có các quyền về văn hóa, thúc đẩy, bảo vệ các quyền đó phù hợp các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu, hợp tác, quảng bá văn hóa, giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam ra thế giới. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém trong việc vận dụng, phát huy giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Thứ nhất, trong nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa trong xây dựng, phát triển đất nước cũng như mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa với phát triển con người có nơi, có lúc chưa đầy đủ và sâu sắc. Việc triển khai đường lối xây dựng văn hóa của Đảng trong Cương lĩnh và các nghị quyết đại hội Đảng chưa thật đồng bộ và toàn diện. Thứ hai, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội tuy đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn diễn biến phức tạp, có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Tệ nạn xã hội, tội phạm còn phức tạp, tồn tại nhiều hiện tượng trái với thuần phong, mỹ tục, làm cho môi trường văn hóa chưa thực sự lành mạnh. Việc xây dựng và xác định hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, kéo theo sự lúng túng, không thống nhất trong xây dựng các quy định, chuẩn mực văn hóa trong chính trị, kinh tế, trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị. Thứ ba, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa chưa theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, hiệu quả chưa cao. Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng của một số dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một dần. Chưa giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hóa. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với thực tiễn sáng tác. Thứ tư, một số chủ trương, quan điểm nêu trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” chậm được thể chế; chưa có những chiến lược, giải pháp đồng bộ để phát triển và nâng cao năng lực hội nhập quốc tế về văn hóa. Hệ thống thiết chế văn hóa chậm chuyển đổi sang phương thức tự chủ, xã hội hóa. Việc chỉ đạo phát triển công nghiệp văn hóa còn chậm.
Các đặc trưng cơ bản của nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” cùng quan điểm xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được quán triệt thường xuyên; có dấu hiệu bị buông lỏng trong cả ba môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội1. Hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với nông thôn, giữa đồng bằng, trung du với khu vực vùng sâu, vùng xa còn chênh lệch. Thứ năm, hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh nhưng chưa hợp lý; còn có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong một số cơ quan, đơn vị; công tác quản lý các phương tiện truyền thông mới chưa chặt chẽ, nhiều thông tin tiêu cực, sai trái trên mạng và các kênh truyền thông xã hội gây nhiễu loạn nhận thức và bức xúc cho người dân. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc còn nhiều hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự quan tâm và nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người đối với phát triển bền vững đất nước. Vị trí, vai trò của văn hóa chưa thực sự được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, dẫn đến lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Việc thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn hình thức, chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa có mặt còn bất

_____________

1. Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hóa, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả.
3. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 trong bối cảnh mới
Trong bối cảnh hiện nay có nhiều yếu tố tác động tới quá trình xây dựng và phát triển văn hóa như sự phát triển của kinh tế thị trường, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế... Để xây dựng và phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam, phát huy các giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam chúng ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, về giá trị của Đề cương, tăng cường tổ chức các hoạt động sinh hoạt văn hóa, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, cụ thể như sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền sâu rộng tới các cấp, các ngành, các nhà khoa học, giới thực hành văn hóa nghệ thuật và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại, những giá trị cốt lõi về lý luận và thực tiễn, tầm ảnh hưởng của Đề cương về văn hóa Việt Nam; tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là các quan điểm được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Xác định rõ văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị.
Hai là, thường xuyên tổ chức các cuộc vận động tìm hiểu về giá trị văn hóa dân tộc, tổ chức những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về truyền thống cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người khó khăn, thực hiện xóa đói giảm nghèo... để giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống mới của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa mới của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.          Đây cũng chính là “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa”, “cách mạng nhất và tiến bộ nhất” mà Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã định hướng.
Ba là, đối với công tác quản lý nhà nước, cần sớm khắc phục tình trạng chậm thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người. Chú trọng hoàn thiện thể chế, chính sách về văn hóa; sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Tăng cường các nguồn lực tài chính, nâng mức đầu tư một cách hợp lý từ nguồn ngân sách nhà nước, đồng thời thực hiện tốt chính sách xã hội hóa, để khơi thông các nguồn lực xã hội, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển văn hóa.
Bốn là, đẩy mạnh kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý văn hóa từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ văn hóa phù hợp, có trình độ chuyên môn cao, năng lực, phẩm chất bảo đảm ở tất cả các cấp. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ, những tài năng nghệ thuật của đất nước; tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động, phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật, xây dựng các tác phẩm có chất lượng cao. Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội.
Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Hệ giá trị văn hóa gồm các thành tố: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học, đây chính là những giá trị cơ bản được kế thừa từ nội dung cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam, tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thẫm đẫm tính nhân văn, nền văn hóa truyền thống nhưng hiện đại, kết tinh những giá trị của khoa học. Hệ giá trị quốc gia: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc là những giá trị cốt lõi, phản ánh khát vọng, mong cầu, mục tiêu chung của cả quốc gia. Những giá trị được kết tinh từ quá khứ, phát huy vai trò trong hiện tại và có định hướng tới tương lai, làm nền tảng để điều tiết, dẫn đạo sự phát triển của đất nước. Hệ giá trị này là nền tảng để phát triển xã hội, để cổ vũ, dẫn dắt, khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong các tầng lớp nhân dân.
Như vậy, trải qua 80 năm kể từ khi ra đời, bối cảnh tình hình và điều kiện cụ thể ở nước ta đã có nhiều đổi thay nhưng những nội dung cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, luận điểm về tính tất yếu tiến hành cuộc vận động văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới vẫn giữ nguyên giá trị với ý nghĩa là một quy luật, một đòi hỏi mang tính khách quan và tính thời sự, tiếp tục soi đường cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển. Chúng ta cần tiếp tục vận dụng, duy trì và phát huy các giá trị đó để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam ngày càng đậm đà bản sắc và giàu đẹp hơn.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
CƯƠNG LĨNH CHIẾN LƯỢC VĂN HÓA ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG TA
PGS.TS. LÂM BÁ NAM*
PGS.TS. LÂM MINH CHÂU**
T
 
ám mươi năm đã qua kể từ khi Đảng ta ban hành Đề cương về văn hóa
Việt Nam, đây là lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm, nhận thức về văn hóa Việt Nam dưới dạng một đề cương nhưng trên thực tế, có thể coi đây là cương lĩnh đầu tiên về văn hóa có ý nghĩa lịch sử. Trên cơ sở đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta từng bước nâng cao, điều chỉnh, hoàn thiện đường lối và chiến lược phát triển văn hóa, xác định vai trò đặc biệt của văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Trong bài viết này, chúng tôi xin làm sáng tỏ thêm về vị trí đặc biệt của Đề cương về văn hóa Việt Nam trên các khía cạnh tầm nhìn chiến lược, các nguyên tắc xây dựng nền văn hóa và việc vận dụng, kế thừa, xây dựng phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước.
1. Tầm nhìn chiến lược về văn hóa
Trước hết phải đặt Đề cương về văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của thời kỳ tiền khởi nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập đến bối cảnh Việt Nam và thế giới đã tác động tới đời sống và văn hóa Việt Nam. Từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến chế độ áp bức của Nhật và Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành

_____________

*, ** Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trung ương tháng 5/1941 đã chỉ ra rằng: Nhiệm vụ cấp bách là làm thế nào để huy động mọi lực lượng để cứu nước, giải phóng dân tộc. Mặt trận Việt Minh ra đời đã đáp ứng yêu cầu đó. Tiếp theo đó Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đầu năm 1943 đã chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phátxít thụt lùi. Vì thế không thể không có chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách mạng.
Trong bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đã chỉ ra các giai đoạn của văn hóa Việt Nam bao gồm thời phong kiến và thời thuộc địa (mang tính tương đối) và khẳng định tính bất cập của nó trước yêu cầu của thời kỳ mới. Đề cương viết: “Chiến tranh và xu trào văn hóa hiện nay: ảnh hưởng của văn hóa phát xít làm cho tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hóa Việt Nam mạnh lên, nhưng đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ, xu trào văn hóa mới của Việt Nam đang cố vượt hết mọi trở lực để nảy nở (văn nghệ bất hợp pháp)”1. Đề cương cũng chỉ ra các nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách thống trị của phát xít Nhật và đế quốc Pháp. Điều này càng được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. Trong bản tuyên ngôn bất hủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đanh thép tố cáo tội ác của phát xít nhật và đế quốc Pháp đối với nhân dân ta trong 80 năm lầm than dưới ách nô lệ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa2. Trong bối cảnh đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy động toàn dân trong cao trào giải phóng dân tộc mang sức ta mà tự giải phóng cho ta. Để đáp ứng nhu cầu đó, bản Đề cương nhận định: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới’’3.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta bàn về văn hóa, xác định phạm vi vấn đề (tư tưởng, học thuật, nghệ thuật); quan hệ văn hóa và kinh tế, chính trị, coi văn hóa là một trong ba mặt trận hay ba trụ cột, là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động của Đảng, vì “có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả’’4.

_____________

1, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.317, 318, 316.
2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.1-3.
Trên cơ sở đó, bản Đề cương xác định, mối quan hệ giữa cách mạng văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung, nhất là trong bối cảnh của cao trào giải phóng dân tộc lúc bấy giờ. Đề cương cũng đề cập đến mối quan hệ này sau khi cách mạng thành công (trong văn bản ghi là cách mạng chính trị). Đề cương khẳng định quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị. “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển’’1. Do vậy, trong cải tạo xã hội cần kết hợp đồng bộ giữa 3 lĩnh vực kinh tế, chính trị với văn hóa; thực hành cách mạng trên lĩnh vực văn hóa không tách rời cuộc cách mạng trên lĩnh vực chính trị và kinh tế.
Đề cương văn hóa chỉ rõ, cách mạng chính trị phải giành thắng lợi trước rồi cách mạng kinh tế và cách mạng văn hóa mới có điều kiện thực hiện thắng lợi, đồng thời vấn đề cách mạng văn hóa được thực hiện thành công mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội.
Đây là những quan điểm rất cốt lõi khi nhận thức về văn hóa. Cần phải thấy, Đảng ta quan niệm ngay từ đầu về nội hàm rộng của văn hóa, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của tư tưởng - nội dung mang tính chi phối và quyết định sự phát triển của sự nghiệp cách mạng. Lần đầu tiên, Đảng ta xác định, văn hóa là bộ phận hợp thành của toàn bộ sự nghiệp cách mạng với ba trụ cột căn bản (kinh tế, chính trị, văn hóa) do Đảng lãnh đạo. Đây vừa là nguyên tắc, là phương châm hành động và là cách thức vận động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Nói cách khác, tư tưởng của Đảng chỉ có thể đi vào cuộc sống và định hướng dư luận thông qua con đường văn hóa vì chính văn hóa mới tạo nên sức mạnh của Đảng khi lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng.
2. Dân tộc hóa và sức mạnh nội sinh của văn hóa
Khi nói về Đề cương văn hóa, các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao các nguyên tắc “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa”. Đã có không ít các công trình nghiên cứu làm rõ các nguyên tắc này. Ở đây chúng tôi xin làm rõ thêm khía cạnh liên quan đến tính dân tộc của nền văn hóa.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.319.
Trong mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tính dân tộc trong văn hóa đã được thảo luận khá rộng rãi. Liên quan đến vấn đề này có hai vấn đề mang tính cốt lõi, đó là: tính dân tộc và bản sắc - Thực tế phát triển của mọi dân tộc mà Việt Nam không là ngoại lệ, đó là sự phát triển mang tính nội tại, đóng vai trò quan trọng hàng đầu, là căn cốt của nền văn hóa. Khi nhấn mạnh đến tính dân tộc chính là thừa nhận tính đa dạng văn hóa.
Bản Đề cương đưa ra khái niệm dân tộc hóa chính là thừa nhận sự dung hợp, giao thoa văn hóa. Cụ thể hơn giao thoa văn hóa đặt trên nền tảng sức mạnh nội sinh của văn hóa dân tộc. Mặc dù trong Đề cương chủ yếu đề cập đến văn hóa quốc gia nhưng trong điều kiện lúc bấy giờ sự phân biệt các khái niệm dân tộc/tộc người chưa được bàn thảo và khái niệm này có thể được hiểu ở cả hai khái niệm này chúng tôi đã có dịp bàn về mối quan hệ này khi đề cập đến đa dạng trong thống nhất - sức mạnh nội sinh của văn hóa Việt Nam1.
Văn hóa Việt Nam thống nhất trên cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, đó là điều không thể phủ nhận. Tuy tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam còn là sản phẩm và là kết quả của quá trình dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam từ đa số đến các dân tộc thiểu số, khởi nguồn từ thời kỳ dựng nước, trải qua hàng thiên niên kỷ cho đến hôm nay, trở thành sức mạnh nội sinh của văn hóa cộng đồng dân tộc quốc gia.
Nước ta là một nước văn hiến lâu đời. Đó là điều đã được khẳng định. Chính trên nền tảng đó trải qua hàng ngàn năm lịch sử dân tộc ta đã vượt qua phong ba bão táp, vững vàng bên bờ Thái Bình Dương, mà không một kẻ thù nào có thể khuất phục nổi. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta gắn liền với việc sáng tạo, bảo lưu văn hóa dân tộc, bồi đắp các giá trị văn hóa tộc người và văn hóa quốc gia, được hun đúc và tiếp nối từ thế hệ này đến thế hệ khác, trở thành tài sản vô giá trong quá khứ cũng như trong hiện tại và tương lai. Khi xem xét nội lực của văn hóa tộc người cần phải xem xét hoàn cảnh lịch sử, địa lý của dân tộc đó trong tiến trình

_____________

1. Xem Lâm Bá Nam: Nghiên cứu tộc người ở Việt Nam - Văn hóa và Phát triển, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2020.
lịch sử để thấy rằng các giá trị đó được hình thành qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, có tính bền vững cao nhưng nó cũng luôn vận động trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc và chịu sự tác động của các yếu tố chính trị, xã hội.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã phải trải qua rất nhiều biến động trong quá trình dựng nước và giữ nước. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành một đặc điểm xuyên suốt trong lịch sử dân tộc. Có thể nêu lên một số đặc điểm chính của cộng đồng dân tộc Việt Nam là:
  • Nền văn minh dân tộc được hình thành và định hình sớm đã tạo nên bản sắc văn hóa, tính cách dân tộc và được nuôi dưỡng phát triển qua hàng nghìn năm. Từ hàng nghìn năm trước trên lãnh thổ Việt Nam đã hình thành những trung tâm văn minh và nhà nước đầu tiên. Đó là văn hóa Đông Sơn ở phía bắc với nhà nước Văn Lang - Âu Lạc ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh với nhà nước Chăm Pa (ban đầu gọi là Lâm Ấp) ở miền Trung và văn hóa Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam.
  • Lịch sử Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm từ trên 2.000 năm trước. Đó là lịch sử vinh quang và oanh liệt nhưng cũng có không ít đau thương mất mát.
  • Lịch sử Việt Nam là lịch sử xây dựng giang sơn của một dân tộc bên bờ Biển Đông từ vùng núi và thung lũng vươn ra chinh phục vùng đồng bằng châu thổ và biển cả với nền nông nghiệp thâm canh bền vững.
  • Lịch sử Việt Nam là lịch sử của cộng đồng 54 dân tộc cùng kề vai sát cánh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Mặc dù quá trình sinh tồn của các tộc người không đồng nhất với nhau nhưng do cùng chung vận mệnh lịch sử nên sự đoàn kết gắn bó trong cộng đồng dân tộc đã trở thành một truyền thống quý báu, làm nên tính đa dạng và thống nhất của văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam đã tổng kết: Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Cái giàn đó chính là Tổ quốc Việt Nam.
  • Đó cũng là quá trình tiếp biến văn hóa và giao thoa văn hóa trên nền tảng văn hóa dân tộc, từng bước làm giàu có thêm nền văn hóa dân tộc, đóng góp vào kho tàng văn hóa quốc gia và nhân loại. Quá trình giao thoa này diễn ra từ thời cổ trung đại và đặc biệt diễn ra trong thời cận hiện đại, nhất là trong quá trình hội nhập hiện nay.
Liên quan đến tính dân tộc hay dân tộc hóa là bản sắc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: Văn hóa dân tộc với ý nghĩa sâu xa nhất và tốt đẹp nhất chính là cốt lõi của bản lĩnh và bản sắc dân tộc từ xa xưa cho đến nay, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dân tộc, làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam không ngừng phát triển và lớn mạnh. Trong bản Đề cương tuy chưa đề cập đến bản sắc một cách rõ ràng nhưng đã chỉ ra các yếu tố làm nên bản sắc như vấn đề tiếng nói và chữ viết, vấn đề văn phạm (mẹo văn ta), chống nạn mù chữ, thực hành tân dân chủ về nội dung... trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Lịch sử đã chỉ ra rằng, toàn cầu hóa không chỉ là thách thức đối với các quốc gia, dân tộc và tộc người trên phương diện chính trị, kinh tế mà cả trên lĩnh vực văn hóa, thể hiện qua ngôn ngữ, âm nhạc, truyền hình, ẩm thực và trang phục... Dưới tác động của văn hóa phương Tây, nhiều khái niệm mới đã xuất hiện như chủ nghĩa đa nguyên văn hóa, chủ nghĩa liên văn hóa, xuyên văn hóa, cho thấy những vấn đề đặt ra với việc bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh đó, nếu một quốc gia không đủ sức đề kháng trước ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh, thì các hệ giá trị và đặc biệt là bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị xói mòn, phân rã hoặc thậm chí là đồng hóa. Nói theo Nguyễn Hồng Phong, văn hóa là bộ gen xã hội của mọi dân tộc, do vậy một dân tộc mất văn hóa cũng đồng nghĩa với việc dân tộc đó bị diệt vong với tư cách dân tộc hay quốc gia. Ý nghĩa lịch sử của Đề cương về văn hóa Việt Nam theo nguyên tắc “dân tộc hóa” chính là khẳng định hướng phát triển mang tính bền vững của văn hóa Việt Nam. Chỉ có thể thực hiện “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” khi dân tộc hóa văn hóa.
3. Kế thừa, phát triển trên cơ sở các giá trị của “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là văn kiện đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng lý luận văn hóa ở Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ giới trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, đồng chí Trường Chinh đánh giá: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam... Nhưng Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của Việt Nam”1. Đề cương không chỉ có giá trị trong chỉ đạo hoạt động văn hóa - xã hội mà còn có ý nghĩa đối với việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về nền văn hóa Việt Nam sau này.
Trong bối cảnh và điều kiện cụ thể như đánh giá của Tổng Bí thư Trường Chinh chính là tự nhận thức mang tính lịch sử. Có thể thấy cho đến thời điểm đó (1943) chưa có các công trình nghiên cứu mang tính lý luận về văn hóa ở Việt Nam. Ngoại trừ công trình Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh (Văn hóa Tùng thư, xuất bản 1938) nhưng chỉ mang tính khái luận về văn hóa truyền thống. Vì thế Đề cương chưa có điều kiện nghiên cứu các giai đoạn phát triển của văn hóa Việt Nam, các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và mối quan hệ của nó trong sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, bản Đề cương cũng chưa có điều kiện nhận diện các trào lưu tư tưởng, văn hóa phương Tây du nhập, tác động đến đời sống của xã hội Việt Nam và một số vấn đề khác. Tuy nhiên những vấn đề cốt lõi của bản Đề cương vẫn có sức sống mãnh liệt trong tiến trình phát triển, được kiểm nghiệm trong thực tế và tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa.
Xuất phát từ Nghị quyết Trung ương lần thứ tám và bản Đề cương, tháng 4/1943, Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập, quy tụ các văn nghệ sĩ, trí thức hòa chung vào con đường lớn của dân tộc dưới ngọn cờ độc lập tự do. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi chính quyền về tay nhân dân, việc xây dựng và phát triển văn hóa từng bước được triển khai và nâng tầm về mặt lý luận. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, với nhận thức “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Đảng ta tiếp tục bổ sung và nâng cao nhận thức về lý luận văn hóa và vai trò của văn hóa.

_____________

1. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.3, tr.559.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 10 (khóa III) vào cuối năm 1964, trên cơ sở xem xét và bổ sung đường lối của Đại hội Đảng lần thứ III (1960), Trung ương chủ trương triển khai ba cuộc cách mạng là: Cách mạng quan hệ sản xuất; Cách mạng kỹ thuật; Cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng kỹ thuật là then chốt.
Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Có thể coi đây là cương lĩnh thứ hai của Đảng ta về văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã bổ sung phạm vi, nội hàm của văn hóa, bao gồm tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản văn hóa; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lưu văn hóa với thế giới; thể chế và thiết chế văn hóa. Tính dân tộc hay dân tộc hóa từ Đề cương được cụ thể hóa thành bản sắc văn hóa dân tộc.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Nghị quyết đã nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt quan trọng của chủ thể sáng tạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là nhân tố con người, trước yêu cầu hội nhập quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Văn hóa (...) có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng: thì văn hóa là trình độ phát triển về tinh thần và vật chất của nhân loại trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định... Nghĩa hẹp: thì văn hóa là những hoạt động tinh thần của một xã hội, gồm có những lĩnh vực: giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức... Văn hóa cũng bao gồm cả văn hóa vật thể (các di tích lịch sử, các công trình văn hóa, di sản văn hóa, những sản phẩm văn hóa: Kim tự tháp, đình, chùa, miếu thờ,...) và phi vật thể (ca dao, dân ca, hò vè, lễ hội; các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi địa phương...). Nhưng dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ”1.
Có thể thấy, những luận điểm tư tưởng, quan điểm mang tính định hướng có tính chiến lược của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng ta đã đặt nền tảng cho việc xây dựng và từng bước hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng, đưa văn hóa trở thành bệ đỡ trong chiến lược phát triển đất nước và khát vọng Việt Nam hùng cường. Những quan điểm cốt lõi của bản Đề cương tiếp tục được thực hiện trong thực tiễn và khơi nguồn về lý luận trong việc xây dựng văn hóa và con người Việt Nam hiện nay và tương lai.

_____________

1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.157-177.
 
NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
PGS. TS. NGUYỄN THU NGHĨA*
V
 
iệt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực: kinh tế phát triển; hệ thống chính trị được củng cố; an ninh - quốc phòng được tăng cường; môi trường văn hóa - xã hội có nhiều thay đổi; đời sống nhân dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Song song với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa mới được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đường lối tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với đường lối phát triển văn hóa đã tạo ra những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Để có được những thành công như vậy không thể không kể đến vai trò của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Tuy ngắn gọn, chỉ trong vài trang giấy, với hơn 1.000 từ nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn, là văn kiện định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa ở Việt Nam.
Trải qua 80 năm, từ năm 1943 đến nay, đã có nhiều nghị quyết chính sách, về văn hóa ra đời nhưng Đề cương về văn hóa Việt Nam là những nguyên tắc đầu tiên, cơ bản, nền tảng và vẫn vẹn nguyên giá trị. Những điều được đề cập đến trong Đề cương đến nay vẫn tiếp tục được bổ sung chứ không hề thay đổi. Ba nguyên tắc dân tộc hóa - đại chúng hóa - khoa học hóa được đề cập trong Đề cương như sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa của

_____________

* Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Việt Nam và cho đến bây giờ vẫn khẳng định tính đúng đắn, khoa học và chính xác. Có thể khái quát một số giá trị cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Đề cương đã xác định đúng đắn về phạm vi và nội dung của văn hóa: “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” cũng như xác định được nhiệm vụ và quyền lãnh đạo cách mạng văn hóa thuộc về Đảng ta một cách công khai, rõ ràng: Cách mạng văn hóa phải do Đảng lãnh đạo. Đồng thời, khẳng định nền văn hóa phải phục vụ nhân dân, là kết quả hoạt động sáng tạo của nhân dân: “Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng)1. Văn hóa Việt Nam 80 năm qua đã chứng minh cho quan điểm trên là hoàn toàn đúng đắn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn hóa Việt Nam đã vận động theo những định hướng gắn văn hóa với chính trị, kinh tế và văn hóa nằm trong chính trị và kinh tế, bảo vệ phẩm giá dân tộc, xây dựng một xã hội mới giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn hóa dưới sự định hướng của Đảng đã khẳng định những giá trị chân - thiện - mỹ, dân tộc - dân chủ - nhân văn - khoa học.
Thứ hai, Đề cương đã cảnh báo về các nguy cơ của văn hóa Việt Nam lúc đó và còn có ý nghĩa cho đến hiện tại. Nếu thời kỳ Đề cương văn hóa ra đời, chúng ta chỉ có kẻ thù trực tiếp và dễ nhận thấy là phát xít Nhật và thực dân Pháp thì hiện nay chúng ta có nhiều thế lực thù địch núp dưới nhiều chiêu bài tinh vi và xảo quyệt hơn rất nhiều. Thời điểm đó, chúng thực hiện các âm mưu lôi kéo các trí thức, các văn nghệ sĩ, sử dụng nhiều hình thức công khai để tuyên truyền cho văn hóa của chúng, như: triển lãm, xuất bản báo chí, tuyên truyền, biểu diễn văn nghệ, tổ chức các chuyến tham quan và hoạt động nghệ thuật ra chính quốc để tuyên truyền cho cái mà chúng gọi là tính ưu việt, để mọi người nhầm tưởng chỉ có văn hóa đó là văn minh, tiến bộ đồng thời khuyến khích các hoạt động mê tín, dị đoan và nhiều hủ tục của Việt Nam. Điều đó đã dẫn đến “Tư tưởng sùng ngoại này dẫn tới đầu óc tự ti dân tộc và miệt thị văn hóa dân tộc. Một số người đã không biết đến truyền thống yêu nước, khí phách anh hùng, tính lao động cần cù, sáng tạo, phẩm

_____________

1. Bộ Văn hóa Thông tin: Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 - Những giá trị tư tưởng văn hóa, Viện Văn hóa Thông tin và Văn phòng Bộ, Hà Nội, 2003, tr.15.
chất cao quý của dân tộc ta suốt mấy nghìn năm lịch sử “1. Hiện nay, chúng ta đã cởi mở hơn trong việc nhìn nhận, đánh giá trong quá trình tiếp biến văn hóa nhân loại cũng như nhận thức sâu hơn về vấn đề kết hợp giữa giá trị văn hóa dân tộc và giá trị văn hóa nhân loại để làm giàu thêm cho văn hóa Việt Nam nhưng những nguy cơ làm ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng đến việc giữ gìn và phát huy các bản sắc văn hóa còn rất nhiều. Có nhiều vấn đề văn hóa đang được đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, cần đi sâu phân tích những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới cũng như nhận thức được đâu đang là thời cơ và đâu là thách thức đối với phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trước sự phát triển nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng ta đứng trước yêu cầu cấp thiết là phải bảo vệ nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là bảo vệ các giá trị truyền thống đang có nguy cơ bị mai một trước làn sóng toàn cầu hóa.
Thứ ba, Đề cương nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, văn hóa với chính trị: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội”2. Với tính chất lịch sử - cụ thể, Đề cương lúc đó xác định: “Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau)”3. Trong mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế và nền tảng văn hóa xét đến cùng thì kinh tế giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, không thể xem kinh tế có trước văn hóa có sau hay ưu tiên phát triển kinh tế trước rồi mới phát triển văn hóa. Để phát triển bền vững thì phải đặt tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ với phát triển văn hóa cũng như cả bốn lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cần phải được coi trọng ngang nhau. Chính nhờ nhận thức đúng đắn này từ Đề cương văn hóa đã làm biến đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội, kinh tế không ngừng phát triển, đời sống văn hóa của người dân được nâng lên, lĩnh vực văn học, nghệ thuật được quan tâm đầu tư phát triển. Đặc biệt đến Đại hội XI, Đảng

_____________

1, 2, 3. Trường Chinh: Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 - Những giá trị tư tưởng văn hóa, tr.32, 15, 17-18.
ta đã có nhận thức mới về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa: “Làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Thứ tư, Đề cương định hướng cho các hoạt động văn hóa theo các nguyên tắc văn hóa Việt Nam mới là: dân tộc hóa - đại chúng hóa - khoa học hóa. Đề cương cũng khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”1. Đây là hai vấn đề căn cốt đặt nền móng cho cách mạng tư tưởng và văn hóa cũng như đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta. Dù trong quá khứ hay hiện tại, tính chất dân tộc của văn hóa là một giá trị luôn vận động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ, lỗi thời và tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tiến bộ và tích cực, đồng thời tạo lập các giá trị mới, hiện đại để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại. Tính chất dân tộc không đồng nhất với cái đã có, cái cũ, cái thuộc quá khứ mà được hiểu là vừa bao hàm các giá trị do dân tộc mình sáng tạo ra trong suốt quá trình lịch sử từ quá khứ đến hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nội lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước. Bảo vệ và phát huy giá trị dân tộc trong giai đoạn hiện nay chính là bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính gắn kết cộng đồng; bảo vệ và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc, xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh. Bên cạnh đó, cũng cần khẳng định ý chí và bản lĩnh của con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhấn mạnh đến đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống của con người Việt Nam.
Nội dung dân chủ của nền văn hóa Việt Nam chính là khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công dân trước Tổ quốc, dân tộc và thời đại. Nội dung dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân

_____________

1. Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 - Những giá trị tư tưởng - văn hóa, tr.19.
tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chống tư tưởng tự do vô chính phủ, tự do vô kỷ luật.
Về nguyên tắc khoa học, nền văn hóa mà Việt Nam mong muốn xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập nhật những thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ tư tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố khác của nền văn hóa Việt Nam cũng phải được hiện đại hóa. Giá trị khoa học của nền văn hóa còn thể hiện ở sự nghiệp đổi mới của dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, phủ nhận cái xấu, cái ác, cái giả; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và tạo lập môi trường văn hóa lành mạnh cho quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Thứ năm, Đề cương không chỉ dừng lại ở những luận điểm về văn hóa và cách mạng văn hóa mà còn đưa ra một chương trình hành động cụ thể về văn hóa, đó là: “1. Tuyên truyền và xuất bản; 2. Tổ chức các nhà văn; 3. Tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, v.v..; 4. Chống nạn mù chữ, v.v..”1.
Chính nhờ những chương trình hành động cụ thể này mà thời kỳ đó đã hình thành một nền văn hóa yêu nước, cách mạng cùng với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật đỉnh cao, gắn chặt với hiện thực các cuộc cách mạng đấu tranh chống đế quốc xâm lược của dân tộc. Lời khẳng định: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”2 đã trở thành hiện thực.
Sau hơn 40 năm kể từ ngày Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã mở ra một con đường phát triển chưa từng có: con đường xây dựng xã hội mới theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thay đổi cục diện phát triển

_____________

1, 2. Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943 - Những giá trị tư tưởng - văn hóa, tr.20, 17.
chung của đất nước cũng mở ra một cục diện mới cho sự phát triển văn hóa Việt Nam, phù hợp với sự đổi mới toàn diện đất nước theo con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù, cục diện này chưa làm thay đổi cơ bản các quan hệ văn hóa cho phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà mới chỉ lưu ý đến chất lượng những hoạt động văn hóa cụ thể như quản lý văn hóa, thiết chế văn hóa hay xã hội hóa một số hoạt động văn hóa.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng ta khẳng định việc xây dựng “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”1 nhưng sau đó vẫn sử dụng khái niệm nền văn hóa mới Việt Nam với nội dung bao trùm là nhân đạo, dân chủ, tiến bộ và mục tiêu của nền văn hóa này là “tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng”2.
Năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII khẳng định, văn hóa Việt Nam hôm nay là thành quả kế thừa văn hóa của toàn bộ lịch sử dân tộc trước đây và đang vận động trong cơ chế thị trường, mô thức phát triển của nó là tiên tiến, đậm đã bản sắc dân tộc, Nghị quyết đã khắc họa rõ nét hình ảnh nền văn hóa Việt Nam hiện tại và trong tương lai. Đó là nền văn hóa có vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường. Các quan điểm lớn về văn hóa được đề cập trong Nghị quyết, như: nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng; văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, trong mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy - đều được tiếp

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.138.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Sđd, tr.144.
nối trong suốt quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đặc biệt là từ những ý tưởng đầu tiên của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã thể hiện sự phát triển cả nhận thức và tư duy lý luận về văn hóa, lãnh đạo văn hóa của Đảng ta. Đó cũng chính là kết tinh của sự kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc ta, lý tưởng văn hóa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa, về phương pháp lãnh đạo văn hóa, quản lý văn hóa; là sản phẩm từ tổng kết lý luận và thực tiễn trong quá trình gần 70 năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa của Đảng ta.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được xem là bản Đề cương văn hóa Việt Nam thứ hai sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đánh dấu một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta và nhân dân ta về văn hóa và văn học, nghệ thuật.
Từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đến nay, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường..., Đảng ta đã xác định cần phải phát triển văn hóa Việt Nam toàn diện và cụ thể hóa trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng văn hóa thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội.
Từ năm 1943 đến nay, tình hình trong nước và tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi, tại mỗi kỳ đại hội Đảng ta đều điều chỉnh đường lối phát triển văn hóa cho phù hợp với tình hình mới. Đảng ta đã mở rộng, tiếp tục nghiên cứu và phát triển những tư tưởng cơ bản của Đề cương về văn hóa Việt Nam bằng những văn kiện có tầm chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, phát triển văn hóa Việt Nam có rất nhiều vấn đề phải bàn: văn hóa giáo dục, văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa tôn giáo, văn hóa lễ hội, văn hóa du lịch, văn hóa giao thông, văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa doanh nghiệp, bảo tồn văn hóa,... Tại các kỳ họp của Quốc hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các vấn đề văn hóa này đã trở thành vấn đề nóng của xã hội. Những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã có ảnh hưởng tiêu cực đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm thay đổi các quan điểm của họ về giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng không tốt đến lối sống, nếp sống của họ. Sự sa sút về phẩm chất, đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thể hiện ở xu hướng chạy theo những giá trị vật chất đơn thuần, có tư tưởng sùng ngoại, văn hóa ngoại lai, từ đó coi thường những thuần phong mỹ tục, hoặc lãng quên các giá trị truyền thống của dân tộc. Do đó, cần tìm hiểu nội lực thực sự của văn hóa Việt Nam hôm nay trong dòng chảy chung của văn hóa nhân loại và trong dòng chảy văn hóa Việt Nam. Cần phải có những văn bản mang tính chiến đấu rõ ràng, thái độ phê phán quyết liệt được thể hiện mạnh mẽ trong từng câu chữ như Đề cương văn hóa để thực sự soi đường cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam hôm nay và tương lai.
 

TƯ TƯỞNG “DÂN TỘC - KHOA HỌC - ĐẠI CHÚNG” NHỮNG GIÁ TRỊ LÝ LUẬN TRONG CHIẾN LƯỢC

XÂY DỰNG VĂN HÓA CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PGS.TS. LÂM NHÂN)
T
 
háng 2/1943, Đảng Cộng sản Đông Dương - chính Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc của nước ta đã đề ra văn bản lịch sử “Đề cương về văn hóa Việt Nam”. Đây là bản tuyên ngôn mácxít đầu tiên về cách mạng văn hóa, đề cương đã vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân và những người làm công tác văn hóa một cương lĩnh cách mạng dân chủ mới, là động lực thúc đẩy cách mạng toàn dân đoàn kết đấu tranh giải phóng đất nước và bảo vệ, phát huy phát triển nền văn hóa của dân tộc.
1. Bối cảnh xuất hiện của “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943
Bối cảnh xã hội hiện tại ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam thời điểm đất nước ta đang ở vào giai đoạn cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nhân dân ta đang phải sống trong hoàn cảnh áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, cuộc sống người lao động ngày càng lầm than cơ cực. Bên cạnh đó chúng áp dụng chính sách văn hóa nô dịch làm cho giới tri thức, văn nghệ sĩ quên đi nỗi nhục mất nước. Khuynh hướng đấu tranh yêu nước của giới văn nghệ sĩ dần dần di vào chiều hướng cải lương chủ nghĩa, không triệt để đôi khi góp phần có lợi cho chính sách cai trị của Pháp - Nhật.
Để chống lại những chính sách văn hóa phản động này, năm 1943 Đảng ta đã đề ra Đề cương về văn hóa Việt Nam. Bản đề cương ngắn gọn, xúc tích

_____________

) Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
gồm có 5 phần có quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau; là cương lĩnh chiến đấu thể hiện sâu sắc tính Đảng. Đề cương xác định vai trò của văn hóa trong đấu tranh cách mạng và trong sự nghiệp giải phóng dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm của Đảng về văn hóa có giá trị vô cùng to lớn trong việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Những quan điểm này đóng vai trò như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình vận động và phát triển nền văn hóa Việt Nam từ năm 1943 đến nay.
2. Ba nguyên tắc vận động văn hóa của “Đề cương về văn hóa Việt Nam
Đề cương văn hóa khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế chính trị - văn hóa), ở mặt trận này người cộng sản phải hoạt động; để xây dựng thành công mặt trận văn hóa thì người chiến sĩ cộng sản phải nắm vững ba nguyên tắc vận động văn hóa của đề cương đề ra:
  • Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
  • Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
  • Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa rời đông đảo quần chúng).
Ba nguyên tắc vận động văn hóa của Đề cương về văn hóa Việt Nam có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau một cách hữu cơ, chi phối lẫn nhau và không thể tách rời nhau. Đây là những nguyên tắc hết sức quan trọng trong quá trình vận động phát triển nền văn hóa Việt Nam; là cơ sở, tiền đề cho các chính sách hoạt động văn hóa của Đảng ta từ năm 1943 đến nay. Quá trình vận động và phát triển của văn hóa Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 được xem như như là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Năm 1998, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là một bước phát triển mới kế thừa nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Đặc biệt, năm 2014, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định sự vận động của 3 nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng là sợi dây xuyên suốt bắt nguồn từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.
Mối quan hệ hữu cơ của 3 nguyên tắc vận động văn hóa được Tổng Bí thư Trường Chinh khẳng định: “Một nền văn hóa dân tộc mà không có tính khoa học và tính nhân dân thì rất có thể vì quyền lợi ích kỷ và hẹp hòi của dân tộc mà đi ngược lại bước đường tiến hóa của lịch sử,... Văn hóa có tính khoa học mà không mang tính dân tộc và tính nhân dân thì rất có thể phục vụ khoa học cho kẻ địch... Văn hóa có tính nhân dân mà không tính dân tộc và tính khoa học thì sẽ trở nên hẹp hòi chỉ nhìn thấy lợi ích của công nông mà không chú ý đến lợi ích của dân tộc để kháng chiến thắng lợi...”1. Luận điểm này đã khẳng định rõ hơn về vai trò của ba nguyên tắc vận động văn hóa trong quá trình phát triển nền văn hóa mới, trong. Quá trình vận động phát triển nền văn hóa Việt Nam đó là sự kết hợp hài hòa cả 3 nguyên tắc vận động văn hóa trên. Tùy theo từng thời điểm lịch sử để áp dụng sao cho phù hợp như vậy mới đúng theo đường lối phát triển văn hóa mà Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã đề ra.
3. Tính chất mở đường với vai trò là kim chỉ nam của 3 nguyên tắc vận động văn hóa đối với các lĩnh vực văn hóa và việc xây dựng văn hóa con người Việt Nam hiện nay
- Về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
Lĩnh vực này chiếm vị trí quan trọng và rộng lớn trên mặt trận văn hóa. Trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay lĩnh vực này đang diễn ra hết sức phức tạp, khó quản lý và đầy những biến động, thử thách, cam go. Nhưng những tư tưởng chủ đạo từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 được Đảng ta vận dụng tài tình khéo léo qua các kỳ đại hội đã ngày càng hoàn thiện hơn. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động văn hóa nghệ thuật vừa mang tính đại chúng tính nhân văn vừa khoa học, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,... Đó chính là sự kế thừa và phát huy cho phù hợp với tình hình mới từ 3 nguyên tắc vận động văn hóa đã được đề ra cách đây hơn nửa thế kỷ.
Qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề văn hóa, đặt ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa con người Việt Nam đáp ứng được yêu cầu phát triên bền vững

_____________

1. Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.15.
đất nước. Thực hiện mục tiêu này, lĩnh vực hoạt động văn hóa nghệ thuật phải “phát huy được truyền thống văn hóa dân gian kết hợp với giao lưu tiếp thu vốn văn hóa nhân loại”, “đảm bảo dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, đề cao trách nhiệm của các nhà văn hóa văn nghệ trước công chúng, dân tộc và thời đại, coi giới văn nghệ sĩ là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa...”1. Văn nghệ sĩ cần có trách nhiệm trong việc chuyển tải các giá trị văn hóa của dân tộc vào các sản phẩm nghệ thuật. Hàm lượng giá trị văn hóa truyền thống mang bản sắc văn hóa Việt Nam chứa đựng trong các sản phẩm nghệ thuật sẽ là những loại thuốc đề kháng để chống lại những thứ phản văn hóa, đi ngược lại với quá trình phát triển của nền văn hóa nước nhà.
Hoạt động văn hóa nghệ thuật phải có tinh thần đổi mới, phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong xây dựng văn hóa phải lấy xây dựng, phát triển con người có nhân cách, đạo đức, có lối sống tốt đẹp làm trọng tâm; xây dựng môi trường văn hóa (gia đình, cộng đồng và xã hội) lành mạnh làm cốt lõi2. Như vậy các yếu tố (dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa) qua các dẫn chứng trên đã cho phép chúng ta nhận định rằng lĩnh vực hoạt động văn hóa ngày nay đã kế thừa, tiếp biến những tư tưởng chủ đạo của 3 nguyên tắc vận động văn hóa mà Đề cương văn hóa năm 1943 đã đề ra.
- Về lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa dân tộc
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định “Truyền thống văn hóa dân tộc là cái gốc để xây dựng và phát triển nền văn hóa mới. Phải bảo tồn để tránh sự đồng hóa, mất gốc văn hóa do đó phải “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”3. Sự vận dụng, tài tình sắc bén những ý tưởng của Đề cương về văn hóa năm 1943 trong suốt

_____________

  1. Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1995, tr.36.
  2. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-be-mac-hoi-nghi-lan-thu-9-banchap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-591, truy cập ngày 18/2/2023.
  3. Bốn mươi năm Đề cương Văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.19.
quá trình vận động và phát triển nền văn hóa Việt Nam cho đến ngày nay, các chính sách bảo tồn các di sản văn hóa của Đảng ta luôn luôn đi đôi với phát huy, phát triển các di sản văn hóa của dân tộc; chống lại các quan điểm biệt lập văn hóa, những tư tưởng bảo thủ dân tộc hẹp hòi... Phải ngày càng phát triển những di sản văn hóa ấy lên một tầm cao mới góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa của nhân loại. “Bảo tồn phải đi đôi với giao lưu tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới làm ngày càng phong phú thêm cho kho tàng văn hóa của nước nhà” Ở đây chúng ta thấy rằng 3 nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa được vận dung và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn trong tiến trình toàn cầu hóa. Và đó cũng là những vấn đề lý luận mấu chốt trong việc xây dựng chiến lược phát triển văn hóa con người Việt Nam hiện nay.
Tính chất “đại chúng hóa” của Đề cương về văn hóa năm 1943 đề ra với tiêu chí cụ thể là mọi chủ trương hành động trong hoạt động văn hóa không được phản lại đông đảo quần chúng nhân dân hoặc xa rời quần chúng. Hiện nay nguyên tắc vận động văn hóa này được vận dụng và phát triển ngày càng cao hơn, tạo cho quần chúng nhân dân có ý thức gìn giữ di sản văn hóa dân tộc. Quần chúng vừa có quyền lợi vừa phải có trách nhiệm nghĩa vụ trong việc bảo tồn phát triển vốn di sản văn hóa của dân tộc. Luật di sản văn hóa có ghi: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản văn hóa của nhân loại, việc bảo tồn di sản văn hóa nhằm mục đích phát huy giá trị văn hóa của toàn xã hội; góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế”. Luật cũng nêu rõ: “ Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các hội về văn hóa, nghệ thuật, khoa học và công nghệ tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tài trợ và đóng góp cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc...”1 và tính chất đại chúng hóa còn được thể hiện ở nhiều điều quy định trong Luật di sản văn hóa ở nước ta. Chúng ta có thể nhận định rằng nguyên tắc vận động đại chúng hóa của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã và đang được vận dụng phát huy dần lên tính chất xã hội hóa các hoạt động văn hóa

_____________

1. Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.6.
của Đảng và nhà nước ta mà cụ thể là trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy, phát triển các di sản văn hóa dân tộc.
Qua một số cứ liệu về sự phát triển văn hóa Việt Nam từ khi bản đề cương ra đời và những dẫn chứng những văn bản về quản lý các họat động văn hóa nêu trên của Đảng ta trong thời kỳ hiện nay, chúng ta có thể khẳng định rằng: Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới. Trong đó ba nguyên tắc vận động “dân tộc - khoa học - đại chúng” thể hiện sự sáng suốt của Đảng ta, đáp ứng được yêu cầu thực tế của đất nước ta trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa cách mạng. Đồng thời 3 nguyên tắc vận động văn hóa này chứa đựng đầy đủ những yếu tố quan trọng, là cơ sở định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mới mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã đề ra: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước”, văn hóa phải được đặt ngang hàng kinh tế, chính trị xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định: “Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “văn hóa còn thì dân tộc còn”, “văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI1.
- Về lĩnh vực xây dựng hệ giá trị văn hóa con người Việt Nam
Trong Văn kiện Đại hội XIII và bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 đã định hướng rất rõ việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn

_____________

1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.13.
mực con người Việt Nam thời đại mới. Xây dựng những hệ giá trị này cũng chính là là góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa, giá trị của con người trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây cũng chính là khát vọng và đích đến của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là những giá trị truyền thống đã được xác định kết hợp với những giá trị mới hình thành trong quá trình phát triển đất nước, trong quá trình đổi mới và hội nhập: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những hệ giá trị này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng dân tộc - khoa học và đại chúng của Đề cương văn hóa năm 1943. Hội nhập quốc tế, con người Việt Nam cần nêu cao tinh thần kỷ luật. Sự tuân thủ nghiêm túc về các nguyên tắc trong công việc, trong cuộc sống, nghiêm khắc với bản thân,... là cần thiết hơn bao giờ hết. Con người có tính kỷ luật, nêu cao tinh thần kỷ luật mới có thể hòa nhập vào cuộc sống công nghiệp hiện đại. Trung thực là đức tính cao quý, quan trọng được đúc kết và lưu truyền hàng ngàn năm trước từ cha ông chúng ta. Trung thực quan trọng hơn cả tài năng. Đây là phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân trong xây dựng một cuộc sống lành mạnh, tích cực. Đức tính trung thực giúp mỗi cá nhân có được tình yêu thương, sự tôn trọng từ mọi người xung quanh. Nhìn một cách tổng thể, những hệ giá trị chuẩn mực của mỗi con người trong thời đại mới đều cần có các đức tính trên. Những chuẩn mực này xuất phát từ nền tảng truyền thống và những giá trị mới phù hợp với bối cảnh mới sẽ giúp mỗi cá nhân con người Việt Nam có định hướng đúng đắn trong môi trường hội nhập quốc tế hiện nay.
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có những đặc thù riêng, bản sắc văn hóa đa dạng, độc đáo, tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Mỗi vùng, miền với điều kiện địa lý tự nhiên khác nhau nên cùng là một cộng đồng nhưng sinh sống ở các vùng khác nhau sẽ có sự khác biệt. Nhìn một cách tổng thể, đặc trưng của văn hóa các dân tộc ở Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng. Chính vì vậy, tư tưởng dân tộc trong Đề cương năm 1943 là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. Ngoài sự đa dạng dân tộc với 54 tộc người, Việt Nam còn đa dạng về tôn giáo và văn hóa. Hiện tại với 16 tôn giáo và 43 tổ chức ở Việt Nam được Nhà nước công nhận, còn vô vàn các hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau. Điểm đặc biệt ở đây là tuy có đủ các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau nhưng không hề có mâu thuẫn, xung đột tôn giáo. Bất cứ ai cũng có thể đến thăm viếng nhà thờ, vào chùa, hội quán, đình, miếu,... Điểm đặc biệt này không phải nơi nào trên thế giới cũng có được. Có lẽ chính là nhờ tư tưởng dân tộc, chủ trương đoàn kết, tôn trọng giá trị văn hóa các dân tộc ở Việt Nam như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Chỉ có sự tôn trọng lẫn nhau, sự hòa đồng, đoàn kết của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam mới mang lại những giá trị tốt đẹp như vậy
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943         trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận văn hóa cứu quốc. Ngày nay, đất nước thanh bình nhưng sự xâm lăng về văn hóa lại vô cùng khó lường, đôi khi còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Tư tưởng đại chúng trong phát triển về tinh thần tự lực, tự cường được xem như những giá trị chung cho quốc gia, dân tộc. Tự lực thường gắn với góc độ cá nhân, làm việc gì cũng tự bằng sức mình, với sức lực, khả năng của bản thân, không nhờ cậy ai. Tự lực được dùng trong cụm “tự lực cánh sinh”, có nghĩa là dựa vào sức lực của mình để tự giải quyết những vấn đề khó khăn về đời sống, kinh tế... Tự cường giúp cho tinh thần dân tộc lớn mạnh. Tự cường thường được dùng với nghĩa dành cho tổ chức, dân tộc, đất nước, chẳng hạn “ý thức tự cường dân tộc”... Tự lực và tự cường thường gắn với các yếu tố “tự chủ” (với nghĩa tự quyết định mọi công việc của mình, không để ai chi phối), “tự do” (với nghĩa là trạng thái của một dân tộc, một xã hội và các thành viên trong đó không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội - chính trị, đồng thời không bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng), “tự quyết” (với nghĩa một dân tộc tự mình định đoạt những công việc thuộc về vận mệnh của mình, như thành lập nhà nước, chọn mô hình phát triển)1... Ý chí tự lập tự cường sẽ ngày càng có giá trị về lập trường chính trị và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Nhìn lại 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy Đề cương văn hóa không chỉ là cương lĩnh lãnh đạo văn hóa để định hướng và hành động mà còn được xem như là di sản văn hóa của dân tộc, cần

_____________

1. https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/phat-huy-bai-hoc-tu-luc-tu-cuong-trong-xay-dung-dat-nuochien-nay-1491882417
phải bảo tồn và phát triển nó trong bối cảnh hiện tại. Những giá trị cốt lõi cần gìn giữ, bên cạnh đó cần cập nhật các giá trị mới, phù hợp với thời đại.
Chặng đường phát triển của văn hóa Việt Nam 80 năm qua từ khi bản Đề cương năm 1943 ra đời (1943-2023), chúng ta nhận thấy được những thành tựu phát triển về văn hóa xã hội của đất nước. Các di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy, được sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Đề cương văn hóa thực sự đã đi vào cuộc sống và trở thành quen thuộc của mỗi cá nhân trong xã hội. Những quan điểm và nội dung được đề cập trong bản đề cương từ hơn nửa thế kỷ trước đến nay vẫn còn mang tính thời. Là cơ sở, nền tảng cho các nghị quyết về phát triển văn hóa như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Hiện nay, trong bối cảnh giao lưu và hội nhập quốc tế, một số quan điểm trong Đề cương văn hóa năm 1943 đã được điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với thời kỳ mới. Tuy nhiên, tư tưởng thông suốt về dân tộc - khoa học - đại chúng của Đề cương văn hóa năm 1943 vẫn còn nguyên giá trị. Là cơ sở, nền tảng để phát triển văn hóa con người Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” -

KHỞI NGUỒN NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG VĂN HÓA CHO CÁC VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ThS. PHẠM THỊ NHUNG*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo như một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam. Đề cương ra đời đã xác định ba định hướng lớn: dân tộc - đại chúng - khoa học. Nội dung Đề cương văn hóa nhấn mạnh: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”1. Đây là căn cứ xác định vị trí quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước.
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã xác định rõ nền tư tưởng văn hóa mới cho Việt Nam, để từ đó, tính kế thừa các giá trị của nền tư tưởng văn hóa được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện lịch sử. Với mỗi thời kỳ, thời điểm, vai trò, tư tưởng văn hóa đều được nhấn mạnh nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, đại chúng, khoa học.
Từ sau khi Đề cương văn hóa ra đời đến năm 1985: Tính dân tộc đại chúng - khoa học và vai trò “soi đường cho quốc dân đi”
Sau khi bản Đề cương ra đời, những điểm tựa lý luận của Đề cương đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất diễn ra ở Thủ đô Hà Nội vào ngày 24/11/1946, chỉ rõ vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc thông qua lời khẳng

_____________

* Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2022, tr.12.
định “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Trong giai đoạn này, đường lối văn hóa kháng chiến được dần hình thành, xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc đó là dân tộc, dân chủ (nghĩa là yêu nước và tiến bộ); tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc; bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hóa thực dân, phản động; đồng thời học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; hình thành đội ngũ trí thức mới, đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Báo cáo bổ sung tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày, ngày 7/9/1960 xác định “chú trọng song song phát triển kinh tế và văn hóa, làm cho kinh tế và văn hóa cùng thúc đẩy nhau phát triển”... “Về văn hóa,  cần tiếp tục đấu tranh chống những tàn tích lạc hậu của văn hóa cũ, có kế hoạch đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa mới, làm cho đời sống văn hóa của miền Bắc ngày càng lành mạnh và có nội dung phong phú”.
Tại Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982), Đảng ta xác định đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa, tính chất dân tộc, tính đảng và tính nhân dân. Tại Nghị quyết số 36NQ/TW ngày 24/02/1981 của Ban Bí thư khóa V về những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng ghi rõ: “Nền văn hóa, nghệ thuật của ta thể hiện thống nhất tính dân tộc, tính đảng, tính giai cấp và tính nhân dân. Đó là đặc trưng cơ bản của nền văn hóa, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa”1.
  1. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay: Đổi mới thể chế, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Thực tiễn phát triển văn hóa 10 năm sau ngày đất nước thống nhất cho thấy, Việt Nam cần phải tìm một lựa chọn phù hợp để đưa đất nước thoát

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, t.42, tr.102.
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước phát triển toàn diện và tích cực hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, vào năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã lựa chọn tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền tảng tư tưởng văn hóa tiếp tục được nhấn mạnh qua Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: “Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị khóa VI tiếp tục khẳng định “Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”1.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội... có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII về “Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” (1993) coi “Nhiệm vụ trung tâm của văn hóa, văn nghệ nước ta góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”3.
Trên tinh thần coi “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ”4 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta đưa ra chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa: “Giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hóa, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”5; “Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa - thông tin”. Chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa là quyết sách đúng đắn của Đảng ta góp phần giải phóng năng lực sáng tạo văn hóa trong

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.475.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.134.
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.52, tr.515.
  4. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.114.
  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.48, tr.484.
các tầng lớp nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân chủ động, tích cực tham gia vào quá trình sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Để có cơ sở pháp lý thúc đẩy thực hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngoài ra, Đảng ta còn rất chú trọng cơ chế thi đua khen thưởng, cổ vũ, động viên kịp thời những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến, tích cực đóng góp cho sự nghiệp văn hóa, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 3/6/1998, Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đổi mới công tác thi đua - khen thưởng trong giai đoạn mới. Đảng ta đề ra giải pháp: “Phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,   huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào”; “Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước”. Ngày 16/7/1998, tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã xác định: “1- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; 2- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; 4- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”1.
Việc văn hóa chuyển đổi sau các lĩnh vực khác trong quá trình đổi mới, cũng như những bất cập trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ đã khiến cho sự phát triển nội tại và năng lực sáng tạo văn hóa bị chững lại và khó bắt kịp với tình hình chung của đất nước. Vì thế, để thích ứng với công cuộc đổi mới, mở cửa, đáp ứng các yêu cầu nội tại của sự phát triển văn hóa trong tình hình mới, Việt Nam cần phải đổi mới thể chế văn hóa. Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, xem xét vấn đề khách quan, khoa học, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.57.
đã có quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, bao quát hơn về văn hóa và phát triển, về di sản văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa Việt Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện nhiệm vụ cơ bản “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”1, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định cần: “Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa2. Nghị quyết cũng nêu lên bốn giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa là: 1- Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; 2- Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; 3- Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa; 4- Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Có thể khẳng định, Nghị quyết Trung ương 5 đã nhanh chóng đi vào đời sống và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Những quan điểm, tư tưởng của Nghị quyết đã được quán triệt và triển khai sâu rộng, không chỉ đối với các nhà hoạt động văn hóa, các nhà lãnh đạo, quản lý mà còn đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Với văn kiện lịch sử này, Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra mục tiêu, giải pháp nhằm phá bỏ định kiến, nhìn nhận sức sáng tạo, các nguồn tài nguyên văn hóa và sự tham gia tích cực của xã hội chính là động lực phát huy sức mạnh nội sinh văn hóa.
Bên cạnh đó, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước còn tạo điều kiện cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội. Năm 1998, Đảng ta đề ra phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Từ đó đến nay phương hướng trên đã được

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.82, 68.
quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện trong toàn hệ thống chính trị và xã hội. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đề ra yêu cầu: “Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”1. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, những năm gần đây, Đảng ta rất quan tâm đến xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Việt Nam phải là một đất nước hòa bình, ổn định chính trị, hấp dẫn đầu tư, con người thân thiện, mến khách.
Điểm mới trong quan điểm của Đảng ta ở thời điểm này là khẳng định nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam của văn hóa: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện... văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách”.
Ngày 24/1/2003, Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khóa IX ra Chỉ thị số 18-CT/TW tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về công tác văn học nghệ thuật trong tình hình mới.
Tháng 7/2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII). Hội nghị đã ra kết luận khẳng định: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”2.
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã chỉ ra rằng: “Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.208.
  2. Các văn kiện của Đảng từ 2001 - nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.242.
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng cho phát triển văn hóa, xây dựng con người”1. Xây dựng văn hóa trong kinh tế là một nhiệm vụ mới nêu ra trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI: “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế”2. Xây dựng văn hóa trong kinh tế là một bước tiến cả trong tư duy lý luận của Đảng cũng như trong triển khai tổ chức thực hiện ở nước ta, nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa văn hóa và kinh tế; có giá trị thiết thực và ý nghĩa lâu dài thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển bền vững trong những năm tới.
 Đặc biệt quan trọng là sự ra đời của Nghị quyết số 33/NQ-TW ngày 9/6/2014 về xây dựng, phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Mục tiêu của Nghị quyết là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu này, Nghị quyết đã xác định cần phải xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với thị trường văn hóa, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thông qua triển khai bốn giải pháp: 1- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; 2- Nâng cao hiệu lực,

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr.53-54.
hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; 3- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; 4- Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.
Kế thừa những nhận thức sâu sắc tài nguyên văn hóa là nguồn vốn quý giá phát triển kinh tế - xã hội, nhất là kinh tế du lịch, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Văn bản này đã xác định trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của toàn xã hội trong phát triển du lịch bền vững, đưa ngành này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vừa phát huy các di sản văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo đảm sự hài hòa cả xã hội, việc làm, an ninh và quốc phòng.
Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước cho thấy những quan điểm cốt lõi góp phần phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Nhận thức về vị trí, vai trò của xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam nói chung và văn hóa dân tộc nói riêng trong thời kỳ đổi mới đã được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, một lần nữa việc xây dựng, giữ gìn, chấn hưng nền văn hóa dân tộc được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh qua 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp cụ thể: Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa; Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân, Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực; Sáu là, xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số và 4 giải pháp gồm: 1- Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa; 2- Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới; 3- Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; 4- Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội... để “tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển” và “soi đường cho quốc dân đi”.
Có thể thấy, từ Đề cương về văn hóa Việt Nam được Tổng Bí thư Trường Chinh chấp bút chính là khởi nguồn cho nền tảng tư tưởng văn hóa Việt Nam trong suốt 8 thập kỷ qua. Điều đó được khẳng định trong các văn kiện, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng chính là căn cứ quan trọng để Đại hội XII, và Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế, phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
NỀN TẢNG LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
NGUYỄN MINH NHỰT*
1. Những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, đất nước ta đang trong tình cảnh đau thương, đen tối; nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, thống khổ dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách, mang tính sống còn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là huy động rộng rãi mọi lực lượng trong xã hội, mở rộng khối đoàn kết toàn dân để cứu nước, cứu nòi. Chịu ảnh hưởng của những chính sách bảo thủ, nô dịch, phản động, mị dân của thực dân, phát xít và phong kiến, nền văn hóa Việt Nam giai đoạn này lâm vào khủng hoảng, suy thoái. Lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ bị phân hóa sâu sắc, trong đó những người yêu nước, nặng lòng với dân tộc rơi vào tình trạng mất phương hướng, bi quan, bế tắc trong nhận thức và hành động. Trong bối cảnh đó, thực hiện chủ trương đã được thống nhất tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại Pác Bó (Cao Bằng), Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943, tại Võng La, Đông Anh, Phúc Yên (nay thuộc Hà Nội) để bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đã thông qua bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo.
Bản Đề cương bao quát 5 vấn đề lớn: 1- Cách đặt vấn đề; 2- Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; 3- Nguy cơ của văn hóa dưới ách phát xít Nhật - Pháp;

_____________

* Vụ trưởng Vụ Văn hóa - Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương.
4- Vấn đề cách mạng và văn hóa Việt Nam; 5- Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam. Với dung lượng hết sức ngắn gọn, cô đọng và súc tích, Đề cương đã nhận thức sắc bén tình hình, dự báo khoa học về tương lai; đồng thời trình bày hệ thống, rõ ràng những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của văn hóa trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc, vạch ra đường hướng xây dựng nền văn hóa mới trên cơ sở thấm nhuần ba nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, sự ra đời của Đề cương đã trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ nhân dân ta, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ hăng hái tham gia cách mạng, đóng góp quan trọng làm nên thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm 1954 và đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào giai đoạn hòa bình, độc lập, thống nhất, nhất là từ đổi mới đến nay, qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (được bổ sung, phát triển năm 2011), qua nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng và các nghị quyết chuyên đề về văn hóa, văn học, nghệ thuật1, tư duy lý luận của Đảng về văn hóa không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Nhìn lại quá trình lịch sử 80 năm qua, có thể khẳng định, những quan điểm cốt lõi của Đề cương đã trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, kiến tạo những thành tựu to lớn và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, là nền tảng lý luận của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
2. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,

_____________

1. Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị khóa VI về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”; Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”;...
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Ở khái niệm này, văn hóa có mối quan hệ hai chiều, quan hệ hữu cơ chặt chẽ, không thể tách rời với con người. Nói đến văn hóa, thực chất là nói đến con người và ngược lại. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa; đồng thời, văn hóa là môi trường sản sinh ra những phẩm chất của con người, có tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Đó là cơ sở, tiền đề để Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và con người trong quá trình phát triển.
Đề cương về văn hóa Việt Nam xem phạm vi của văn hóa bao gồm “tư tưởng”, “học thuật” và “nghệ thuật”; đồng thời khẳng định mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động; cách mạng văn hóa muốn thành công phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát triển quan điểm của Đề cương, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, Đảng ta đã cụ thể hóa và ngày càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về phạm vi của văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã khái quát: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”2. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển. Xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp là trọng tâm, cốt lõi của phát

_____________

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.40.
triển văn hóa; mọi hoạt động văn hóa đều phải hướng tới xây dựng, phát triển con người. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”1. Văn hóa được xác định là một trong bốn trụ cột chính sách của Đảng và Nhà nước, gắn bó chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ biện chứng, trong đó: phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực phát triển của xã hội; quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Từ đó, Đảng ta đặt ra nhiệm vụ tập trung xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, phát triển tư tưởng của Đề cương về vị trí, vai trò của văn hóa trong mối quan hệ với chính trị và kinh tế, Đảng ta đã đề ra những quan điểm mới, phù hợp với đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, Đảng nhất quán tư tưởng của Đề cương, đồng thời có sự bổ sung, phát triển, đánh giá đúng vai trò của các chủ thể khác: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”2.
  1. Trên cơ sở phân tích lịch sử, tính chất và những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp, chỉ rõ tiền đồ của nền văn hóa dân tộc, Đề cương đã trình bày những nội dung cốt lõi về vấn đề cách mạng văn hóa ở nước ta, trong đó đề ra ba nguyên tắc vận động của văn hóa: “a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). c)
Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học,

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48, 49.
phản tiến bộ)”1. Sau khi Đề cương ra đời, ngày 23/9/1944, Tổng Bí thư Trường Chinh đã có bài viết quan trọng “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này”, đăng trên Tạp chí Tiên phong, số 2, ra ngày 1/12/1945, trong đó chỉ rõ căn nguyên dẫn đến “ba nhược điểm”, “ba căn bệnh” lớn của văn hóa Việt Nam lúc đó là: “phản dân tộc, phản đại chúng, phản khoa học”; giải thích rõ về ba nguyên tắc vận động: Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc độc lập và thống nhất, phải thẳng cánh đập tan. Phàm cái gì trái khoa học, phản tiến bộ phải kiên quyết bài trừ. Phàm cái gì phản đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luận phê phán. Bài viết cũng khẳng định, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa ba nguyên tắc: Ba nguyên tắc trên đây là ba cái khâu của sợi dây chuyền. Nó có tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động văn hóa mới Việt Nam nếu ta bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng không thể chỉ theo một nọ mà đồng thời chống lại các nguyên tắc kia. Không nhận rõ điều đó thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ xây dựng văn hóa mới cho dân tộc, mà có khi mắc bẫy văn hóa của đế quốc hoặc bị chúng lợi dụng.
Kế thừa và phát triển ba nguyên tắc quan trọng đã nêu trong Đề cương, Đảng xác định nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế là: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”2. Vận dụng nguyên tắc “dân tộc hóa”, Đảng đề ra nhiệm vụ huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc; xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; tích cực, chủ động mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, tăng cường giới thiệu những giá trị đặc sắc về văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới. Trong quá trình đó, Đảng chú trọng nội dung

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.23-24.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr.48.
nâng cao “sức đề kháng” của nền văn hóa, đấu tranh, phê phán những xu hướng lệch lạc, vọng ngoại, bảo vệ bản sắc, bảo vệ tiếng nói, chữ viết của dân tộc trong quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế. Vận dụng nguyên tắc “khoa học hóa”, Đảng khẳng định phát triển nền văn hóa tiên tiến với các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên tinh thần khoa học, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của thời đại mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tập trung triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới. Đảng cũng đồng thời khẳng định, trên tinh thần khoa học, cần tăng cường đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người và tập trung các giải pháp khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam. Vận dụng nguyên tắc “đại chúng hóa”, Đảng ta khẳng định: “Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng”1; đồng thời tập trung hoàn thiện các thiết chế văn hóa, từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ của nhân dân, nhất là thanh, thiếu niên. Ở đây, quan điểm phát triển văn hóa phục vụ nhân dân luôn được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, không tách rời với nhiệm vụ nâng cao dân trí, hướng quần chúng đến những giá trị nhân văn, tiến bộ.
4. Đề cương ra đời đáp ứng yêu cầu động viên, tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong khối đoàn kết với liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Trong thời kỳ mới, Đại hội XIII của Đảng xác định lộ trình, mục tiêu xây dựng và phát triển nước ta như sau: đến năm 2025, là nước đang phát triển

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.263-264.
có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa và phát triển những quan điểm, bài học kinh nghiệm được đúc kết từ Đề cương, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những quan điểm, chủ trương toàn diện, sâu sắc về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đề cập một cách toàn diện và sâu sắc đến lĩnh vực văn hóa, từ chủ đề Đại hội đến các quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Theo đó, vấn đề phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là cốt lõi của quan điểm thứ ba trong số năm quan điểm chỉ đạo, khẳng định gắn kết nhân tố văn hóa và nhân tố con người, nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xem đây là nguồn sức mạnh nội sinh, động lực trung tâm cho phát triển bền vững đất nước. Quan điểm chỉ đạo này được cụ thể hóa thành định hướng thứ tư trong tổng thể 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực quan trọng nhất của đất nước”1. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng về mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa văn hóa và con người, đặt con người ở vị trí trung tâm, vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá trình phát triển văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đồng thời, Đại hội XIII tiếp tục

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.330.
khẳng định nhất quán những phương hướng căn bản về phát triển văn hóa con người Việt Nam được đề ra trong Văn kiện Đại hội XII, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, đồng thời bổ sung một số nội dung mới quan trọng. Đây là những đột phá nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thực tiễn xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong thời gian qua, nhất là giải quyết những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của lĩnh vực quan trọng này. Khẳng định quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn cách mạng mới là tập trung chấn hưng và phát triển mạnh mẽ nền văn hóa dân tộc, huy động sự tham gia, cống hiến tâm huyết, trí tuệ, tài năng của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ. Trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, những quan điểm, chủ trương quan trọng của Đảng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh một cách hệ thống. Trên cơ sở đó, Tổng Bí thư đã khẳng định sáu nhóm nhiệm vụ và bốn nhóm giải pháp lớn, sâu sắc và toàn diện nhằm chấn hưng, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Một trong những nhiệm vụ trung tâm được Đảng nhấn mạnh là: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”1. Đây là vấn đề mới, trong đó lần đầu tiên Đảng ta đặt vấn đề nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, đồng thời nhấn mạnh hơn nữa vị trí, vai trò của việc xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam. Bốn hệ giá trị cốt lõi này có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, chặt chẽ với nhau. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra những thành tố căn bản của các hệ giá trị này, bao gồm hệ giá trị quốc gia: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị văn hóa: dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; hệ giá trị con người: yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo; hệ giá trị gia đình: ấm no, hạnh

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143.
phúc, tiến bộ, văn minh. Đây là nhiệm vụ, đồng thời là giải pháp có ý nghĩa nền tảng, rất quan trọng trong xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
5. Trên cơ sở kế thừa, phát huy, phát triển những nội dung, quan điểm cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam và thành tựu của công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhiều vấn đề căn cốt về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước đã được Đảng ta xác định rõ. Bên cạnh đó, có những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, đúc kết và làm rõ. Đó là cụ thể hóa hơn nữa nội dung “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; làm rõ nội hàm của từng giá trị và mối quan hệ giữa các giá trị trong việc xây dựng và triển khai thực hiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới; nhận thức cụ thể, sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị; về phát triển thị trường các sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật...
Lịch sử cách mạng Việt Nam 80 năm qua đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, Đề cương về văn hóa Việt Nam là sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh, tầm nhìn xa trông rộng, tư duy lý luận sắc bén của Đảng, đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hóa hiện đại nước ta. Đây là, văn kiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi có tính thời sự, vừa mang tầm thời đại, đóng vai trò là một cương lĩnh, chiến lược của Đảng về văn hóa, là cội nguồn, nền móng vững chắc để Đảng ta từng bước phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam vừa nhất quán, kiên định, vừa từng bước bổ sung, phát triển các nội dung, quan điểm đã được đề cập trong Đề cương và ngày càng hoàn thiện, sâu sắc hơn, góp phần quan trọng trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng. Trong diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương, Đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. [...]. Nhưng Đề cương văn hóa đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam”1. Thực tế đã chứng minh, một số nội dung, luận điểm của Đề cương đã được thực tiễn phủ nhận biện chứng, được bổ sung, điều chỉnh và làm rõ. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì những tinh thần cơ bản, cốt lõi, tính chiến đấu và những bài học quan trọng của văn kiện vẫn còn nguyên giá trị hiện thực trong giai đoạn hiện nay. Kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương là dịp quan trọng để Đảng tiếp tục nghiên cứu, kế thừa những luận điểm khoa học, soi chiếu vào thực tiễn hôm nay để tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận; nâng cao hơn nữa nhận thức và hiệu quả hành động để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

_____________

1. Trường Chinh: “Diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về cách mạng văn hóa Việt Nam”, in trong sách: Bốn mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.12.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ VĂN HÓA TRƯỜNG CHINH
PGS.TS. PHẠM LAN OANH*
Đ
 
ồng chí Trường Chinh (9/2/1907 - 30/9/1988) tên thật là Đặng Xuân Khu, có bí danh là Anh Nhân, bút danh là Cây Xoan, T.t (Tin tức), Q.N, Qua Ninh, Sóng Hồng, T.Tr.. Quê quán tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Quá trình hoạt động cách mạng 63 năm của đồng chí Trường Chinh được tóm lược theo lý lịch của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước1.

_____________

* Phó Viện trưởng, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
1. Năm 1925, tham gia cuộc vận động đòi đế quốc Pháp ân xá cho nhà yêu nước Phan Bội Châu.
Năm 1926, là một trong những người lãnh đạo cuộc bãi khóa để truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh ở Nam Định.
Năm 1927, gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1929, tham gia cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương ở Bắc Kỳ.
Năm 1930, được chỉ định vào Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm đó, đồng chí bị đế quốc bắt và kết án 12 năm tù cấm cố, đày đi Sơn La. Cuối năm 1936, được trả lại tự do.
Từ cuối năm 1936 đến năm 1939, là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ và đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương trong Ủy ban Mặt trận Dân chủ Bắc Kỳ.
Năm 1940, là chủ bút báo Giải phóng, cơ quan của Xứ ủy Bắc Kỳ. Tại Hội nghị lần thứ 7 Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1941, tại Hội nghị lần thứ 8 Trung ương Đảng, được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn kiêm chủ bút báo Cờ Giải phóng và Tạp chí Cộng sản, cơ quan Trung ương của Đảng, Trưởng ban Công vận Trung ương.
Tháng 8/1945, được Hội nghị toàn quốc của Đảng cử phụ trách Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Trường Chinh là tác giả của nhiều công trình mang tính nghiên cứu lý luận, thơ ca, bài báo chính luận, đặc biệt, đồng chí là người soạn thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam trong vai trò là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1943.
Xung quanh nội dung “Đề cương về văn hóa Việt Nam”
Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện mang tính cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Đảng do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943 tại xã Võng La, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc huyện Đông Anh, Thủ đô Hà Nội.
Nội dung Đề cương bàn về những chủ trương mang tính lý luận và thực tiễn đặt ra một cách cấp bách của cách mạng trong bối cảnh đất nước đang

_____________

Năm 1951, tại Đại hội lần thứ II của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (ở Đại hội này, Đảng Cộng sản Đông Dương được đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam) đến tháng 10/1956.
Năm 1958, làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước.
Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác Quốc hội và công tác tư tưởng của Đảng.
Năm 1976, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ở Đại hội này, Đảng Lao động Việt Nam được đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và Trưởng ban Lý luận của Trung ương.
Năm 1976, được bầu làm Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV, V, VI, VII. Từ khóa II đến khóa VI, đồng chí làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Năm 1981, được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1982, tại Đại hội lần thứ V của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và là Ủy viên Bộ Chính trị.
Tháng 7/1986, tại Hội nghị đặc biệt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Tháng 12/1986, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Trưởng ban soạn thảo Cương lĩnh và Chiến lược kinh tế, kiêm Trưởng Tiểu ban soạn thảo Cương lĩnh của Đảng.
Đồng chí từ trần ngày 30/9/1988 tại Hà Nội.
cam go trong vòng nô lệ và đô hộ của phong kiến, thực dân với chính sách cai trị hà khắc trong thời gian dài một cổ hai tròng.
Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn bản có dung lượng chỉ khiêm tốn 1.465 từ, chia 5 phần. Cách đặt vấn đề của Đề cương ngắn gọn, bao quát và cụ thể, đánh giá đúng tình hình đất nước, đề cập thẳng vào lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam, những nguy cơ tai hại do thực dân Pháp và phát xít Nhật áp đặt lên nền văn hóa Việt Nam, nêu trực tiếp vấn đề của cách mạng văn hóa Việt Nam trong thời điểm đó là gì; nền văn hóa ấy gắn bó với cuộc cách mạng ở Đông Dương ra sao; nền văn hóa mới đó vận động theo nguyên tắc nào và có tính chất gì? Sau cùng, công việc cực kỳ quan trọng đặt ra là những nhà hoạt động văn hóa ở Đông Dương và Việt Nam phải làm để văn hóa tiến bộ xã hội chủ nghĩa trở thành hiện thực trên bán đảo Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Phần IV của Đề cương đề cập đến ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa: Dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa, và được cụ thể hóa bằng ba công việc phải làm: a) Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng...; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng; b) Tranh đấu về tông phái văn nghệ... làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; c) Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết: thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói; ấn định mẹo văn ta; cải cách chữ quốc ngữ, v.v...
Để hiện thực hóa nội dung đã nêu, Đề cương ghi rõ cách vận động phải kết hợp công khai và bán công khai, phương pháp bí mật và công khai thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mácxít nhằm: tuyên truyền và xuất bản; tổ chức các nhà văn; tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ; chống nạn mù chữ...1.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo đã trở thành kim chỉ nam cho các tổ chức và hoạt động văn hóa, văn nghệ, trực tiếp đưa các giá trị văn hóa nói chung đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.27-28.
nước và xây dựng đất nước. Từ đó, một nước Việt Nam mới, một nền văn hóa mới, tiến bộ đã hình thành và đồng hành cùng dân tộc tới ngày nay.
Kỷ niệm 80 năm ngày ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam, nhìn lại và khẳng định những giá trị cốt lõi, soi đường, tác dụng định hướng vĩ mô và những công việc cụ thể đã được triển khai những năm qua là rất cần thiết, thể hiện sự đúng đắn, sáng suốt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi lựa chọn xây dựng xã hội mới với nền văn hóa mới ở Việt Nam là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, vì hạnh phúc, lợi ích của người dân. Cùng với đó, chân dung tác giả Đề cương về văn hóa Việt Nam là nhà văn hóa Trường Chinh cũng đồng thời tiếp tục được khẳng định qua những giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam.
Tổng Bí thư Trường Chinh - nhà văn hóa lớn
 Đồng chí Trường Chinh sinh ra và lớn lên trong gia đình Nho học truyền thống. Ông nội là Đặng Xuân Bảng (1828-1910), đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (năm 1856). Bố đẻ là Đặng Xuân Viện (1880-1958), có nhiều sách viết về văn hóa, lịch sử, địa lý, triết học... Bản thân đồng chí Trường Chinh là người thông minh sáng dạ, luôn có tư tưởng tiến bộ trên nền tảng giáo dục Nho học của gia đình. Trải qua hoạt động thực tiễn học, thi, tham gia cách mạng, chịu tù đày và chịu trách nhiệm gánh vác nhiều trọng trách trong Đảng và Chính phủ, đồng chí Trường Chinh ba lần giữ cương vị Tổng Bí thư, đã từng gánh trách nhiệm Tổng biên tập cơ quan báo chí (Báo Cờ Giải phóng, Nhà xuất bản Sự thật, Báo Nhân dân, Tạp chí Tiên phong, Tạp chí Cộng sản), là nhà lý luận, nhà thơ,... và trên hết, đồng chí là nhà lãnh đạo có tầm văn hóa lớn. Cuộc đời hoạt động cách mạng, những tác phẩm đồng chí để lại, trong đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn bản mang tính pháp lý cao nhất của Đảng trong thời gian hoạt động công khai nửa bí mật, trước khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam được tiếp tục tuân thủ, bổ sung và hoàn thiện theo lộ trình cách mạng diễn ra ở Việt Nam. Đồng thời, qua đó, trong tư cách là Tổng Bí thư, chịu trách nhiệm trước toàn Đảng, toàn dân, những tác phẩm, những bài viết của đồng chí Trường Chinh thể hiện nhận thức cá nhân và nhận thức của Đảng về nền văn hóa mới ngày càng rõ nét.
Bằng lao động sáng tạo không ngừng, đồng chí Trường Chinh - với nhiều bút danh - đã để lại nhiều bài viết mang tính lý luận, chính luận, có cả những bài báo, bài thơ đề cập tới những chủ đề đa dạng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao,... Với tinh thần Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ/Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền, của thi phẩm Là thi sĩ sáng tác vào mùa hè năm 1942, tinh thần của một người cách mạng rất yêu văn hóa và có năng khiếu về nghệ thuật đã trải lòng những vần thơ như những lời đầu tiên gắn với Đề cương về văn hóa Việt Nam, được soạn thảo và thông qua tháng 2/1943.
Những nội dung bổ sung tiếp nối tinh thần Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 được Tổng Bí thư Trường Chinh thể hiện trong Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới ở Việt Nam lúc này1 gồm: Thứ nhất, những nội dung khẳng định: Những điều tai hại làm cho văn hóa Việt Nam thiếu tính chất dân tộc thống nhất vì bị đô hộ và nô dịch văn hóa theo Tàu, theo Tây (Pháp) và Nhật khiến phong trào “lai hóa” tràn vào ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật cũng như phong tục và tư tưởng. Thứ hai, do bị o ép và xuất phát từ quốc gia nông nghiệp nên không mấy ai để ý đến khoa học. Thứ ba, văn hóa đại chúng/tức là văn hóa hợp pháp (và cả văn hóa bất hợp pháp) tại thời điểm đó mang ba nhược điểm/căn bệnh lớn là phản dân tộc, phản khoa học, phản đại chúng. Do đó, cuộc vận động văn hóa mới ở Việt Nam cần phải:
Dân tộc hóa - phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc độc lập và thống nhất, phải thẳng cánh đập tan.
Khoa học hóa - phàm cái gì trái khoa học, phản tiến bộ, phải kiên quyết bài trừ.
Đại chúng hóa - phàm cái gì phản đại chúng, xa đại chúng, phải nhất luận phê phán2.

_____________

  1. Xem Nhiều tác giả: Đề cương về văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.22-28.
  1. Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ghi:
 “- Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
  • Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
  • Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Ba nguyên tắc này phải thực hiện liên hoàn, “cũng không thể chỉ theo một nọ mà đồng thời chống lại những nguyên tắc kia. Không nhận rõ điều này thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ xây dựng văn hóa mới cho dân tộc, có khi mắc bẫy văn hóa của đế quốc hoặc bị chúng lợi dụng”1. Như thế, chỉ thời gian ngắn sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời ở dạng đề cương sơ lược, việc cụ thể hóa, làm rõ nét hơn mấy nguyên tắc lớn... bằng bài viết cụ thể này đã là minh chứng đánh dấu việc Đảng đặt vấn đề và thực sự bắt tay vào sự nghiệp cách mạng văn hóa - văn hóa thực sự là mặt trận và để thực hiện dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa thành công “những người hoạt động văn hóa tiên phong, trung thành, nhẫn nại, tích cực và khôn khéo. Họ phải lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh thần trong dân tộc và tư duy duy vật biện chứng là kim chỉ nam. Những nhà văn ấy phải đấu tranh trên tất cả các mặt trận văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, v.v.. Hành động của họ phải bao quát cả đấu tranh hợp pháp và đấu tranh bất hợp pháp”2.
Đến tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được trình bày tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, tháng 7/1948, tính chất và nhiệm vụ văn hóa dân chủ mới Việt Nam được đồng chí Trường Chinh tiếp tục nhấn mạnh, làm rõ ràng, khúc chiết tính chất văn hóa có tính chất dân tộc, đại chúng và khoa học bằng những minh chứng, ví dụ cụ thể. Đồng chí khẳng định thái độ đúng đắn và bí quyết thành công để các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa thực hiện được ba phương châm vận động văn hóa mới là: “1) Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến, không thỏa hiệp với tư tưởng và văn hóa phản động; không trung lập, không giữ thái độ bàng quan. 2) Ra sức nghiên cứu khoa học, kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất, chiến đấu và đời sống con người; lấy học thuyết Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động; biết và làm đi đôi, lý luận và thực tiễn kết hợp. 3) Một lòng một dạ phục vụ nhân dân; gần gũi quần chúng công nông binh, cảm thông với quần chúng, học hỏi nhân dân, nhưng giáo dục và dìu dắt nhân dân”3. Báo cáo của đồng chí Trường Chinh cũng phân tích rõ lợi ích

_____________

1, 2, 3. Trường Chinh: “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới ở Việt Nam lúc này”, trong Nhiều tác giả: Đề cương về văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, Sđd, tr.2, 28, 38.
và hạn chế của việc tham gia mặt trận văn hóa thống nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược.
Như vậy, trong khoảng thời gian không dài, chỉ từ năm 1941 đến năm 1948, thông qua cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trường Chinh đã có những “cơ hội vàng” để đưa ra nội dung Đề cương về văn hóa Việt Nam và làm rõ nét, sâu sắc, cụ thể hơn nội dung của đề cương sơ lược đó với giới trí thức và quần chúng nhân dân, các đảng viên Đảng Cộng sản, các văn nghệ sĩ... một cách trực tiếp và gián tiếp. Nhờ đó, tinh thần của Đề cương được thấm sâu vào trí óc, gia tăng lý luận và bổ trợ thực tiễn hoạt động của cách mạng dân tộc dân chủ nói chung, cách mạng văn hóa nói riêng trong thập kỷ 40 của thế kỷ XX, trong cả giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam mới.
Chỉ bấy nhiêu thôi, chân dung nhà văn hóa Trường Chinh, với những nội dung ngày càng cụ thể, chính xác thỏa đáng, lôgíc đã đến với xã hội và củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Từ những bài viết đầy tính lý luận, nội dung Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thấm sâu vào đời sống và thực sự là động lực để đẩy nhanh công cuộc kháng chiến kiến quốc, đập tan ách đô hộ của lực lượng ngoại bang.
Diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh trong vai trò là Ủy viên Bộ Chính trị đã đọc diễn văn ngày 27/12/1983 đề cập tới Hoàn cảnh ra đời; nội dung cơ bản của Đề cương. Như vậy, đây tiếp tục là lần chính thức Đề cương về văn hóa Việt Nam được thêm cơ hội làm rõ ràng, cụ thể, với những nội dung mở rộng và chi tiết hóa về nền văn hóa với tính khoa học, tính dân tộc tính nhân dân được trình bày, lý giải từ chính người soạn thảo ra nó. Thông qua báo cáo, nội dung của Đề cương càng chứng tỏ là sức mạnh của “vũ khí tư tưởng sắc bén của các chiến sĩ Việt Nam trên mặt trận văn hóa”1 do Đảng lãnh đạo và hoạt động của các đoàn thể. Như thế, căn cứ vào những lý lẽ đã trình bày một cách thuyết phục, đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Căn cứ vào nội dung của Đề cương thì phải gọi nó là Đề cương về cách mạng tư

_____________

1. Trường Chinh: “Diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong Nhiều tác giả: Đề cương về văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, Sđd, tr.54.
tưởng và văn hóa Việt Nam1. Về tác dụng cơ bản của Đề cương trong 40 năm, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh vai trò đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những “cống hiến của Người về cách mạng tư tưởng và văn hóa” trong tư cách là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, người thày và lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, mà cuộc đời gắn chặt với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới nói chung2.
Với nhận định về Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu, chúng ta thấy sự tương đồng rất lớn giữa chân dung nhà văn hóa Trường Chinh và danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh. Soi vào những tâm tư được gửi gắm trong thời gian lao tù với quan niệm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1942, tại phần cuối sổ chép những bài thơ Nhật ký trong tù (tài liệu chữ Hán - Ngục trung nhật ký), trong Mục đọc sách, chúng ta sẽ thấy nội dung văn hóa mới của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 và việc tiếp tục triển khai cụ thể Đề cương ở những giai đoạn sau rất gần gũi với điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngoài đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc:
  1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
  2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
  3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
  4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
  5. Xây dựng kinh tế”3.

_____________

1, 2. Trường Chinh: “Diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong Nhiều tác giả: Đề cương về văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, Sđd, tr.62, 63.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.431.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nội dung xây dựng nền văn hóa dân tộc gồm 5 điểm lớn như trên trong thời gian ở tù, trước thời điểm Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời gần một năm. Trước đó, cuối năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố tác phẩm Lịch sử nước ta1 với một dự báo thiên tài: “Năm 1945 Việt Nam độc lập”.
Ở đây, sự tương đồng trong thể hiện quan điểm về cách mạng, về văn hóa, về ý nghĩa của tương lai dân tộc, về tấm lòng lo cho dân, lo cho nước và đề cao quần chúng nhân dân - lực lượng chiếm đại đa số trong xã hội bị nô lệ bởi phong kiến và thực dân. Những quan điểm về giải phóng dân tộc để người dân được hưởng thành quả tự do - độc lập - xây dựng một xã hội mới với đời sống mới đã được thông suốt và lôgíc trong nhận thức cũng như phương châm hành động và hành động thực tiễn của Đảng Cộng sản trong 80 năm qua.
Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng đã đào tạo ra những người đồng chí, những người học trò xuất sắc cùng tổ chức lãnh đạo toàn dân tiến hành những bước đi ngoạn mục để đưa Việt Nam từ một dân tộc lạc hậu, tăm tối, bị phụ thuộc, biết đồng lòng đứng lên làm cách mạng, xây dựng một nền văn hóa mới của người dân ở một quốc gia độc lập2. Trải qua mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi quyết sách liên quan đến lĩnh vực tư tưởng, văn hóa lại tiếp tục được tôi luyện, rà soát. Có lẽ, đó chính là lý do mà Đề cương về văn hóa Việt Nam với tác dụng thức tỉnh và thu hút mọi tầng lớp nhân dân vào con đường cách mạng văn hóa có sức hấp dẫn to lớn, được tổ chức kỷ niệm long trọng vào các dịp 40, 50, 60, 70, 75 năm và năm 2023 là 80 năm ngày Đề cương ra đời.

_____________

  1. Tác phẩm Lịch sử nước ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh với 208 câu thơ lục bát tóm tắt một cách cô đọng lịch sử dân tộc từ ngày tổ tiên dựng nước đến trước ngày khởi nghĩa Tháng Tám. Sáng 1/12/2022, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học nhân dịp kỷ niệm 80 năm tác phẩm Lịch sử nước ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Việt Minh Tuyên truyền Bộ Xuất bản ấn hành lần đầu tiên vào tháng 2/1942.
  2. Ngay sau khi ông tái bầu Tổng Bí thư, báo Cứu quốc ngày 23/3/1951 của Liên Việt đã đăng bài giới thiệu, đánh giá: “Người ta có thể nói, Hồ Chủ tịch là linh hồn của cách mạng và kháng chiến, thì ông Trường Chinh là bàn tay điều khiển, chỉ huy”.
Trong dịp kỷ niệm 40 năm ngày ra đời Đề cương, đồng chí Trường Chinh kết luận: “Cuộc sống không đứng yên một chỗ. Cần phát triển Đề cương văn hóa theo hướng đúng trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta (...) đòi hỏi chúng ta xiết chặt hàng ngũ, phát huy những ưu điểm, khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong nhận thức1, phấn đấu trở thành người chiến sĩ kiên cường trên mặt trận tư tưởng, văn hóa”2 là tâm huyết được đồng chí Trường Chinh gửi gắm. Và thực tế, trong vai trò là Tổng Bí thư lần thứ ba, đồng chí đã là vị Tổng Bí thư của công cuộc đổi mới đưa ra tại Đại hội VI năm 1986. “Cống hiến đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh là đặt nền móng cho công cuộc đổi mới. Năm 1986, với cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã đề ra chủ trương đổi mới”3.
*
*       *
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là văn kiện quan trọng chính thức đề cập tới nội hàm văn hóa mới, gắn với chế độ xã hội mới ở một quốc gia chưa được hình thành, chưa có Tuyên ngôn độc lập.

_____________

  1. Về nội dung này, bản thân đồng chí Trường Chinh là tấm gương điển hình khi tự giác xin từ chức với những bất cập sai lầm của lãnh đạo và thực thi chính sách. Tại Hội nghị Trung ương 10 khóa II mở rộng (25/8 - 5/10/1956) về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất, ông từ chức Tổng Bí thư. Sau đó, ông đứng đầu Ban chỉ đạo công tác sửa sai, cho đến năm 1958. Ông phê phán việc khoán hộ sản phẩm của Kim Ngọc và sau này ông nhận mình đã sai lầm vì nhận thức không bắt kịp thực tế và nghe thông tin báo cáo không chính xác. Năm 1986, ông phân công Nguyễn Văn Linh viết Báo cáo chính trị và sau đó chủ động từ chức, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Linh ở Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Hiện nay, văn hóa từ chức đang được Đảng quan tâm như một công việc tất yếu trong tổ chức đảng.
  2. Trường Chinh: “Diễn văn nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam”, trong Nhiều tác giả: Đề cương về văn hóa Việt Nam, chặng đường 60 năm, Sđd, tr.76.
  3. Hòa Mạc: “Đồng chí Trường Chinh, tấm gương chiến sĩ cộng sản kiên cường, suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp của dân tộc và thời đại“, Tạp chí Cộng sản, ngày 29/9/2008. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/9031/view_ content?_contentpublisher_WAR_viettelcmsportlet_urlTitle=dong-chi-truong-chinh%2Ctam-guong-chien-si-cong-san-kien-cuong%2C-suot-doi-phan-dau-vi-ly-tuong-cao-depcua-dan-toc-va-thoi-dai.
Nói về sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam, chúng ta đều biết, những nội dung cốt lõi của bản Đề cương đó đã được đồng chí Trường Chinh ngẫm ngợi lâu dài và sau nhiều lần trao đổi, xin ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và theo quyết định của Đảng trong thời gian hoạt động bí mật đầu năm 1941, thời điểm đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước sau bao năm bôn ba hải ngoại tìm đường giải phóng dân tộc.
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thể hiện sự nhất quán cao độ giữa đường lối của Đảng với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập nền tảng lý luận cách mạng, đồng chí “Trần Phú và các đồng chí Tổng Bí thư (Trường Chinh - PLO chú) tiếp tục phát triển tư tưởng của một đảng hoàn chỉnh, hoàn thiện lý luận cách mạng nước ta. Cách mạng Việt Nam và lý luận của cuộc cách mạng ấy là một điển hình, một hình mẫu của cách mạng thuộc địa trong thế kỷ XX”1.
Những đóng góp to lớn của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh thông qua cuộc đời 63 năm hoạt động cách mạng và cụ thể qua tác phẩm Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được ghi nhận, đánh giá cao trong suốt 80 năm qua. Những tư tưởng cốt lõi tạo nên giá trị của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được kế thừa và đến nay vẫn giữ nguyên tinh thần của cuộc cách mạng văn hóa trong thời kỳ mới của thế kỷ XXI dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kế thừa và phát triển, bổ sung, nâng cấp để phù hợp với bối cảnh mà không xa rời mục đích, lý tưởng của bản Đề cương năm 1943, của ước mong/ham muốn tột bậc của Lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh khi còn sinh thời hướng về hạnh phúc của nhân dân chính là đang đi đúng con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn cho dân tộc Việt Nam.

_____________

1. Hoàng Tùng: “Nhà lý luận lớn của cách mạng nước ta”, trong Nhiều tác giả: Nhà văn hóa Trường Chinh 1907-1988, Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.19.
 
NHỮNG GIÁ TRỊ MANG TẦM THỜI ĐẠI CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
TS. NGUYỄN HUY PHÒNG*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng, kháng chiến, chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam. Với tính chất là một bản “đề cương” ngắn gọn, ra đời trong bối cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trải qua 80 năm những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong Đề cương vẫn vẹn nguyên giá trị và tính thời sự sâu sắc.
Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh là người trực tiếp nghiên cứu, soạn thảo và trình bày trước Hội nghị Thường vụ Trung ương vào tháng 2/1943. Đề cương được viết trong bối cảnh đặc biệt của cách mạng khi đất nước chìm trong bóng đêm nô lệ, dưới sự cai trị thâm độc, tàn bạo của thực dân, phát xít, Đảng phải lui về hoạt động bí mật, đại đa số người dân mù chữ. Vì thế Đề cương được viết một cách ngắn gọn, giản dị, cô đọng, súc tích, bàn về những vấn đề cơ bản của cách mạng tư tưởng văn hóa.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 40 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam (27/12/1983), đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: “Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. Ví dụ: cách mạng tư tưởng đề ra còn quá sơ sài, vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa được đề cập tới... Nhưng
Đề cương văn hóa đã thu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam

_____________

* Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam”1.
Với khoảng 1.500 chữ, được trình bày theo kết cấu 5 phần: Cách đặt vấn đề; Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; Nguy cơ của văn hóa dưới ách phátxít Nhật, Pháp; Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam; Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã đề cập đến những vấn đề cơ bản, then chốt, định hướng và mở ra con đường phát triển mới của nền văn hóa dân tộc dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối lãnh đạo của Đảng.
1. Về vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa
Trước khi bàn về vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đề cương xác định phạm vi, nội hàm của văn hóa, bao gồm ba thành tố cơ bản là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đến nay cả ba thành tố mà Đề cương nêu ra đều là những yếu tố mang tính hạt nhân, có mối quan hệ gắn bó, chi phối, bổ sung và thẩm thấu lẫn nhau, cấu thành nền văn hóa dân tộc.
Trong ba yếu tố đó, yếu tố tư tưởng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến thế giới quan, đến nhận thức, tình cảm, thái độ, cách ứng xử của con người trước những vấn đề của tự nhiên, xã hội. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa”2. Về nội hàm của vấn đề tư tưởng cũng như những thành tựu đạt được trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, Nghị quyết của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc

_____________

  1. Bốn mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.12.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, t.57, tr.294.
và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thụ nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, về các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng. Tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng được tôn trọng”1.
Cùng với “tư tưởng”, “học thuật” là yếu tố nền tảng, quyết định đến chất lượng, nội dung của nền văn hóa. Học thuật liên quan trực tiếp đến trình độ học vấn, đến tri thức khoa học, sự hiểu biết và ý thức làm chủ của con người. Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác từng khẳng định: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo thì có thể xem xét được trình độ văn hóa chung của con người”2. Học vấn là điều kiện cần để con người mở những cánh cửa vào tương lai, thể hiện khát vọng, tinh thần không ngừng học tập, nâng cao tri thức, trình độ và năng lực chuyên môn, từ đó có nhiều sáng tạo, phát minh mới, làm phong phú nền văn hóa dân tộc.
Nếu “học thuật” liên quan trực tiếp đến công tác giáo dục, đào tạo, đến việc trao truyền tri thức, bồi dưỡng thế hệ trẻ, nâng cao dân trí, thì “nghệ thuật” là một biểu hiện sinh động, phong phú của đời sống văn hóa, thể hiện những khát vọng của con người về chân, thiện, mỹ. Nghệ thuật thuộc phạm trù của cái đẹp, là thuộc tính thuộc về con người, đúng như C. Mác từng nói: “Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu giống loài của nó, còn con người thì có thể áp dụng thước đo thích dụng cho mọi đối tượng, do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”3.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.294-295.
  2. Dẫn theo Phạm Duy Đức (Chủ biên): Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.28.
  3. C. Mác: Bản thảo kinh tế - triết học 1844, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.93-94.
Nghệ thuật là những sáng tạo, những rung động, cảm xúc của cá nhân trước tự nhiên, xã hội, từ đó sáng tạo ra những tác phẩm có ý nghĩa, phục vụ nhu cầu đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của con người. Những sáng tạo về nghệ thuật rất phong phú, thể hiện ở nhiều loại hình, như văn học, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh. Trải qua thời gian và những sáng tạo không ngừng nghỉ của các thế hệ người dân Việt Nam đã kết tinh thành những giá trị độc đáo, tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc. Sức mạnh của những tác phẩm nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lối sống tốt đẹp cho con người.
Khi đề cập đến vai trò của văn học, nghệ thuật, Đảng nhấn mạnh: “Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”1. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới tiếp tục khẳng định quan điểm: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”2.
Như vậy, ngay những dòng mở đầu, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác định rõ phạm vi, nội hàm của văn hóa bao gồm 3 lĩnh vực/bộ phận trọng yếu là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Vì thế, khi xây dựng, vun đắp nền văn hóa mới cần phải chú trọng, đề cao ba lĩnh vực đặc biệt quan trọng này, đồng thời thấy được mối quan hệ biện chứng, thẩm thấu lẫn nhau của tư tưởng, học thuật và nghệ thuật - những yếu tố liên quan mật thiết đến bình diện sáng tạo về mặt tinh thần của con người dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của hiện thực đời sống xã hội.
 Nhấn mạnh vào vai trò, vị trí của văn hóa trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đề cương khẳng định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.464.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.294-295.
mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Luận điểm Văn hóa là một mặt trận là một tư tưởng đúng đắn, mang tính thời đại, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng với các mặt trận kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, an ninh - quốc phòng thì mặt trận văn hóa cũng có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng, kháng chiến. Với tính chất là mặt trận không tiếng súng nhưng bằng ngòi bút, trang giấy và sức sáng tạo dồi dào của văn nghệ sĩ, trí thức đã góp phần đánh bại dã tâm xâm lược của kẻ thù, cổ vũ, ngợi ca tinh thần kháng chiến, kiến quốc của nhân dân.
Luận điểm này còn góp phần khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi, những băn khoăn, trăn trở của một số văn nghệ sĩ, trí thức trong quá trình “tìm đường” đến với cách mạng, gắn bó mật thiết với vận mệnh quốc gia, dân tộc. Văn học, nghệ thuật hướng đến phụng sự Tổ quốc, ngợi ca nhân dân, bảo vệ lẽ phải, chính nghĩa, sự công bằng, đồng thời lên án, tố cáo tội ác của thực dân, đế quốc. Trong nhiều bức thư gửi anh em văn nghệ sĩ, trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh đến tính chiến đấu, tinh thần “thép” trong các sáng tác của các nghệ sĩ. Trong thư Gửi anh em văn hóa và trí thức Nam Bộ (25/5/1947), Người khẳng định: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”2.
Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người tiếp tục nhấn mạnh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là: phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm trọn nhiệm vụ,

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.316.
  2. Hồ Chí Minh: Về văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.7.
chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng. Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”1.
Sau này Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) tiếp tục khẳng định quan điểm: “Văn hóa là một mặt trận; xây dựng, phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng”2 nhằm định hướng quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.
Nhấn mạnh đến tính “mặt trận” của văn hóa để thấy rằng văn hóa là một bộ phận khăng khít, có liên hệ mật thiết với cách mạng, đồng thời nhằm cổ vũ, tập hợp lực lượng, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức còn có những dao động, băn khoăn khi đang ở ngã ba đường của sự lựa chọn. Văn hóa là một mặt trận không phải là hạ thấp vai trò, tính sáng tạo của văn hóa, mà đó là sứ mệnh, là trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của người cầm bút trước những vấn đề lớn lao của Tổ quốc, dân tộc. Trong bài báo Tổ chức của Đảng và văn học Đảng viết năm 1905, V.I. Lênin từng khẳng định: “Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp vô sản, phải thành một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc trong một bộ máy dân chủ - xã hội vĩ đại, thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân điều khiển. Sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận khăng khít của công tác có tổ chức, có kế hoạch, thống nhất, của Đảng dân chủ - xã hội”3. Cũng theo Lênin, mọi sự so sánh đều khập khiễng, tuy nhiên văn học, nghệ thuật không thể tách rời chính trị, đó là một bộ phận quan trọng của tổ chức đảng. Nhấn mạnh đến đặc trưng, tính chất của văn học, nghệ thuật, Lênin viết: “Sự nghiệp văn học ít thích hợp nhất đối với một sự cào bằng máy móc, đối với sự san bằng, đối với việc số đông thống trị số ít. Đương nhiên, trong sự nghiệp đó tuyệt đối phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”4.

_____________

  1. Hồ Chí Minh: Về văn hóa văn nghệ, Sđd, tr.19.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.306.
3, 4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.12, tr.123, 124.
Nhằm góp phần lý giải về mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định: “Nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội”1, tức là hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng. Văn hóa bao gồm cả những giá trị vật chất và tinh thần, tuy nhiên khi nói đến văn hóa người ta thường nhấn mạnh đến khía cạnh tinh thần. Vì thế, văn hóa là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng và luôn chịu sự chi phối, tác động của cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế, chính trị quyết định. Tuy nhiên, văn hóa cũng có quy luật vận động, có đời sống riêng mà các loại hình ý thức xã hội khác không có được. Cho nên văn hóa không thể thoát ly, đứng ngoài cuộc sống. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”2.
Nhận thức rõ về vị trí của văn hóa, Đề cương xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn nghệ. Đảng cần phải làm tốt công tác văn hóa, bên cạnh nhiệm vụ làm cách mạng chính trị còn phải làm cách mạng văn hóa, loại bỏ những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, phản giá trị, phản tiến bộ để xây dựng đời sống mới, văn hóa mới. Đồng thời, Đảng phải lãnh đạo được phong trào văn hóa nhằm gây tầm ảnh hưởng; đưa chủ trương, đường lối, quyết sách của Đảng đi vào đời sống của nhân dân.
Đảng lãnh đạo phong trào văn hóa, văn nghệ là vấn đề mang tính tất yếu chính trị nhằm bảo đảm tính định hướng trong sáng tác, tập hợp lực lượng, huy động sức sáng tạo trong mọi tầng lớp nhân dân để thực hiện mục tiêu, sứ mệnh cao cả là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng lãnh đạo văn hóa là vấn đề mang tính nguyên tắc, nhằm bảo đảm tốt quyền lợi, trách nhiệm, cũng như mang lại những cảm hứng dồi dào để người nghệ sĩ viết nên những tác phẩm lớn, có ý nghĩa và mang tầm thời đại.
Thực tiễn cách mạng và những thành tựu trong công cuộc đổi mới đã minh chứng sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định đến đường hướng phát triển cũng như đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.316.
  2. Hồ Chí Minh: Về văn hóa văn nghệ, Sđd, tr.20.
Về cơ chế trong xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, các nghị quyết của Đảng đều nhất quán khẳng định quan điểm: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”1.
2. Về tính chất, nguyên tắc vận động của nền văn hóa mới
Việt Nam
Sau các phần “Đặt vấn đề”, giới thiệu khái quát về “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”, những “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp”, bản Đề cương dành phần IV để bàn về vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam, đó là “một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”2. Đề cương cũng nêu lên ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam, đó là:
  • Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
  • Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
  • Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Ba nguyên tắc đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới. Giải thích cụ thể về nội hàm ba nguyên tắc “Dân tộc hóa, Đại chúng hóa và Khoa học hóa”, tại lễ kỷ niệm 40 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh:
Về nguyên tắc Dân tộc hóa. Gần 100 năm thống trị Việt Nam, thực dân Pháp du nhập vào nước ta những nhân tố tiêu cực của văn hóa tư sản và đế quốc Pháp. Chúng ca tụng sự giàu mạnh, ca tụng chính sách thuộc địa của giai cấp tư sản, gieo rắc vào đầu óc người trí thức Việt Nam tinh thần phục Pháp. Vì sùng bái văn hóa Pháp, nhiều trí thức đã vào làng Tây, nói tiếng Tây, bắt

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.49.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
chước một cách lố lăng từ cách ăn diện đến cuộc sống hưởng lạc, đồi trụy của Pháp. Tư tưởng sùng ngoại dẫn tới tự ti, miệt thị văn hóa dân tộc. Một số người không còn biết đến truyền thống yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, phẩm chất cao quý của dân tộc trong suốt quá trình lịch sử. Dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có lòng tự hào, dũng cảm đứng lên nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam.
Khoa học hóa. Việt Nam là nước nông nghiệp, bị trì trệ lâu ngày dưới chế độ phong kiến. Những quan điểm duy tâm, thần bí, siêu hình của văn hóa phong kiến, thực dân chi phối lớn đến suy nghĩ, hành động của nhiều tầng lớp nhân dân. Tính chất lạc hậu, bảo thủ còn biểu hiện nặng nề trong phong tục tập quán, trong nếp sống hằng ngày của con người. Thực dân Pháp không những xóa bỏ văn hóa phong kiến mà còn duy trì, khôi phục và phát triển, biến nó thành phương tiện thực hiện chính sách ngu dân. Khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kìm hãm ấy, nhằm phát triển về mọi mặt trên cơ sở khoa học, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ, hành động. Nó gạt ra khỏi đầu óc con người những loại thành kiến, hủ bại, mê tín dị đoan.
Đại chúng hóa. Ở một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, đông đảo nhân dân, nhất là công nhân, nông dân bị mù chữ, không có điều kiện để tiếp thụ tinh thần văn hóa của dân tộc và nhân loại. Văn hóa, âm nhạc, hội họa... và các thể loại văn hóa khác không phục vụ nhân dân mà chỉ cốt phục vụ cho giai cấp thống trị. Nói chung quần chúng lao động bị gạt ra ngoài đời sống văn hóa. Văn hóa mới phải là văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, làm cho mọi người biết đọc, biết viết, biết thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật và dần dần chiếm lĩnh các giá trị tinh thần mà dân tộc và loài người tạo ra.
Ba nguyên tắc ngắn gọn, súc tích, vừa đề cập đến hiện trạng nền văn hóa dân tộc, vừa chỉ ra đường hướng xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, đó là nền văn hóa được xây dựng từ nền tảng vững bền là sức sáng tạo bền bỉ của nhân dân; đó là nền văn hóa thuộc về nhân dân, do nhân dân là chủ thể sáng tạo, trao truyền và gìn giữ, phát huy. Nền văn hóa đó phải bám rễ vào cội nguồn lịch sử; không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để bồi đắp và làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc ngày càng phong phú, giàu đẹp.
Dân tộc, khoa học, đại chúng - những thuật ngữ đã trở thành khẩu hiệu, mệnh lệnh trong suy nghĩ, hành động của mỗi người dân Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện công cuộc đổi mới và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân tộc, khoa học, đại chúng đã trở thành tính chất, đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam - một nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc, giàu bản sắc do nhân dân sáng tạo với khát vọng không ngừng vươn đến cái đẹp, cái hữu ích, cái tiến bộ, văn minh.
Kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm của Đề cương về tính chất, nguyên tắc vận động của nền văn hóa mới, các nghị quyết của Đảng đều khẳng định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Có thể khẳng định rằng, ra đời trong bối cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, khi đất nước còn chìm trong bóng đêm nô lệ, dưới ách thống trị của thực dân, phát xít, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã vạch ra con đường phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam, tập hợp được đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức đi theo tiếng gọi của Đảng, Tổ quốc, đem hết sức mình phụng sự, cống hiến cho đất nước, nhân dân. Những tư tưởng, quan điểm ngắn gọn, súc tích được trình bày trong Đề cương đã góp phần giải quyết tốt những vấn đề về tư tưởng, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động; khuyến khích, cổ vũ nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức không ngừng sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, ý nghĩa, kiến tạo nền tảng, sức mạnh tinh thần để cùng với các “mặt trận” khác làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945), giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1975), mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ra đời cách đây gần một thế kỷ nhưng những quan điểm, nguyên tắc, chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng về văn hóa, văn nghệ đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị và tinh thần thời đại sâu sắc, thể hiện tư duy, tầm nhìn và khát vọng của toàn Đảng, toàn dân nỗ lực, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, cống hiến để vun đắp nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giàu bản sắc, tạo sức mạnh, nguồn lực nội sinh để xây dựng nước Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc.
 
QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC, ĐẠI CHÚNG
VÀ KHOA HỌC TRONG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA BỀN VỮNG
GS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG*
C
 
húng ta đều rõ ngay từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã đề ra ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam. Đó là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Muốn cho ba nguyên tắc này thắng lợi phải kịch liệt chống xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít1. Nghĩa là muốn cho văn hóa Việt Nam phát triển bền vững chúng ta phải quán triệt tốt trên thực tế các nguyên tắc: dân tộc, đại chúng và khoa học. Ba nguyên tắc này cũng chính là ba thuộc tính của nền văn hóa Việt Nam mà Đề cương văn hóa năm 1943 đề cập.
Một nền văn hóa của dân tộc bao giờ cũng phải mang tinh thần dân tộc, cốt cách dân tộc, đặc trưng cho dân tộc. Văn hóa được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội. Trong đó, con người - chủ thể sáng tạo văn hóa luôn cụ thể; sống, hoạt động và thuộc về một cộng đồng quốc gia, dân tộc cụ thể, trong những thời đại lịch sử cụ thể. Do đó, văn hóa luôn mang dấu ấn, đặc trưng dân tộc đậm nét, mặc dù nó có những giá trị nhân loại và giai cấp. Hơn nữa, văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, với đúng nghĩa luôn thể hiện tầm cao và chiều

_____________

* Nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.319.
sâu về trình độ phát triển tinh thần của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất của một dân tộc. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 24/11/2021, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn,...”1. Nghĩa là văn hóa là cái khung cốt lõi, cái căn cốt của dân tộc, nếu cái khung cốt lõi, căn cốt này không còn thì dân tộc cũng không còn. Tính dân tộc của nền văn hóa còn thể hiện ở chỗ nền văn hóa dân tộc luôn chống lại văn hóa ngoại lai, nô dịch, áp đặt, biệt lập, tự ti. Nền văn hóa dân tộc là nền văn hóa độc lập, có cội nguồn sâu xa từ trong lòng dân tộc, có cơ sở, sức sống từ chính tinh hoa dân tộc nhưng biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nên văn hóa luôn tràn đầy sức sống. Chính vì vậy mà hơn một nghìn năm Bắc thuộc, văn hóa Việt Nam vẫn giữ được bản sắc dân tộc, không bị đồng hóa. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có hàng nghìn năm lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm, biến cố nhưng đã tạo ra những giá trị văn hóa dân tộc độc đáo như tinh thần yêu nước, đoàn kết, tính cố kết cộng đồng, tinh thần tương thân, tương ái, yêu lao động, cần cù, ham học, vị tha, v.v.. Những giá trị này đã được đúc kết, xây dựng và phản ánh trong nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng ta “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”2.
Một nền văn hóa đại chúng là nền văn hóa gần gũi nhân dân, phục vụ nhân dân, không xa lạ với nhân dân, không đối lập với nhân dân. Đây là đặc

_____________

  1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.157.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.304-305.
trưng và cũng là yêu cầu, nguyên tắc rất quan trọng của nền văn hóa Việt Nam. Tính đại chúng còn thể hiện ở chỗ: chính quảng đại quần chúng nhân dân là người sáng tạo nên văn hóa dân tộc; chính họ cũng là nguồn cảm hứng của văn hóa dân tộc; quần chúng nhân dân cũng là người hưởng thụ văn hóa dân tộc, là người giữ gìn, lưu truyền, làm giàu các giá trị văn hóa dân tộc. Nhờ vậy mà văn hóa dân tộc mới trường tồn và luôn được bổ sung, phát triển, làm giàu thêm. Chính vì vậy mà trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24/11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”1. Nghĩa là quần chúng nhân dân là người tự quyết định vận mệnh của mình cũng như quyết định vận mệnh nền văn hóa dân tộc mình. Nền văn hóa dân tộc chân chính phải là nền văn hóa phục vụ nhân dân, vì nhân dân, gắn bó với nhân dân, soi đường cho nhân dân đi.
Một nền văn hóa khoa học phải là nền văn hóa phản ánh được quy luật khách quan của cái chân, thiện, mỹ, cái tiến bộ, ủng hộ cái mới hợp quy luật phát triển vì sự nghiệp giải phóng con người và cho con người. Nền văn hóa khoa học phải là nền văn hóa tiên tiến, tiến bộ, hiện đại chống lại những gì là cũ kỹ, bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, chống bóc lột, áp bức, nô dịch con người. Đó là nền văn hóa giải phóng con người. Tiên tiến của nền văn hóa được Đảng ta hiểu là “yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện trong các phương tiện truyền tải nội dung”2.
Phát triển văn hóa bền vững ở Việt Nam là quá trình chủ động, tích cực, sáng tạo của toàn quân, toàn dân, toàn thể 54 cộng đồng tộc người anh em, cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với các chương trình, kế hoạch giữ gìn, bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị văn hóa dân tộc; chuyển hóa các giá trị văn hóa dân tộc thành nguồn lực, động lực cho phát triển chính văn hóa và phát triển đất nước.

_____________

  1. Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.64.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.304.
Phát triển nền văn hóa dân tộc bền vững về cơ bản phải là nền văn hóa dân tộc, đại chúng và khoa học. Bởi lẽ, ba thuộc tính này là hồn cốt, mục tiêu và động lực cho phát triển văn hóa. Trong đó, dân tộc là hồn cốt, đại chúng (phục vụ nhân dân) là mục tiêu và khoa học là động lực thúc đẩy phát triển văn hóa bền vững. Giữa ba thuộc tính này có mối quan hệ biện chứng nội tại với nhau trong phát triển văn hóa bền vững. Điều này thể hiện:
Một là, tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi tính đại chúng, nghĩa là phát triển nền văn hóa bền vững phải khởi nguồn từ những giá trị văn hóa của quảng đại quần chúng nhân dân, của tất cả các giai tầng, các tộc người của dân tộc. Nền văn hóa dân tộc không thể là nền văn hóa của riêng ai, của riêng một giai cấp nào mà tiêu biểu cho cả dân tộc. Chính vì vậy, nền văn hóa của giai cấp thống trị áp bức, bóc lột thì không thể đại diện cho văn hóa của cả dân tộc được. Nền văn hóa mà không đại diện cho dân tộc nhất định sẽ bị thay thế bằng nền văn hóa khác đại diện, tiêu biểu cho cả dân tộc. Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã xác định “Các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam:
  1. Thời kỳ Quang Trung trở về trước: văn hóa Việt Nam có tính chất nửa
phong kiến, nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Trung Quốc.
  1. Thời kỳ từ Quang Trung đến khi đế quốc Pháp xâm chiếm, văn hóa
phong kiến có xu hướng tiểu tư sản.
  1. Thời kỳ từ Pháp sang xâm chiếm đến nay: văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa”1. Còn văn hóa mới Việt Nam vươn tới là văn hóa dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Cho nên văn hóa này tiến bộ và cách mạng2. Vì văn hóa mới này đại diện cho không chỉ cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà cho cả dân tộc Việt Nam.
Hai là, chúng ta đều rõ nền văn hóa dân tộc nhưng không khoa học sẽ không thể là nền văn hóa đại diện cho tiến bộ, nhân văn được, chỉ có thể đại diện cho bảo thủ, trì trệ, lạc hậu hoặc là nền văn hóa đại diện cho chủ nghĩa dân tộc tự ti hoặc là chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Không phải ngẫu nhiên mà trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã phê phán chính sách văn hóa của Nhật khi ấy, vì thực hiện:

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.316-317.
  2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
 “- Tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á.
  • Gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng và văn hóa Nhật Bản chiếu rọi những tia sáng văn minh tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông Á, v.v..
  • Tìm hết cách phô trương và giới thiệu văn hóa Nhật Bản (triển lãm, diễn thuyết, đặt phòng du lịch, viện văn hóa, trao đổi du học sinh, mời nghệ sĩ Đông Dương sang thăm nước Nhật, mở báo chí tuyên truyền, tổ chức ca kịch, chiếu bóng...).
  • Đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc các nhà văn có tài”1. Đồng thời Đảng ta cũng phê phán văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa)2. Cả hai kiểu văn hóa này rõ ràng là có thể có tính dân tộc nhưng không có tính khoa học. Sớm muộn hai kiểu văn hóa này sẽ bị tàn lụi. Do vậy, tính dân tộc chân chính của văn hóa đòi hỏi tính khoa học nếu không tính dân tộc sẽ bị biến dạng thành dân tộc hẹp hòi hoặc dân tộc cực đoan. Như vậy thì không thể phát triển văn hóa bền vững được.
Ba là, nền văn hóa đại chúng là nền văn hóa đại diện cho quảng đại quần chúng nhân dân, các tộc người trong quốc gia, dân tộc; phục vụ đông đảo nhân dân. Nền văn hóa này là của nhân dân, vì nhân dân và cho nhân dân. Một nền văn hóa như vậy mới đại diện được cho cả dân tộc, quốc gia, nghĩa là mới là văn hóa dân tộc. Nền văn hóa đại chúng nhưng không khoa học thì cùng không thể đại diện cho quốc gia, dân tộc được, vì văn hóa dân tộc khác với văn hóa đám đông - cổ súy cho những thị hiếu văn hóa tầm thường. Khi ta nói văn hóa có tính đại chúng thì không phải là văn hóa đám đông. Tính đại chúng ở chỗ văn hóa phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân, gắn bó với quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân để phát triển. Nền văn hóa như vậy nhất định sẽ có cơ sở, nền tảng phát triển bền vững.
Bốn là, nền văn hóa khoa học đòi hỏi và bao gồm trong nó nền văn hóa dân tộc và văn hóa đại chúng vì không có nền văn hóa chung chung, trừu tượng không gắn với một quốc gia, dân tộc nào và không phục vụ ai. Nền văn hóa khoa học là nền văn hóa đại biểu cho cả dân tộc và phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân, phù hợp với quy luật phát triển tiến bộ của nhân loại.

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318.
  2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318.
Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại tất cả những gì trái với khoa học, phản khoa học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng, văn hóa tiến bộ.
Chính vì những yêu cầu phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, đại chúng, khoa học mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nêu 5 quan điểm chỉ đạo: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng”1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện mới, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ”2. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (2014) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu    phát triển bền vững đất nước, đã đề ra quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”3. Đại hội XIII tiếp tục đề ra nhiệm vụ “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”4.

_____________

  1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.57, tr.303-306.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.75.
  3. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (dangcongsan.vn), ngày 11/6/2014.
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
Để phát triển văn hóa Việt Nam bền vững cần quán triệt tốt quan hệ biện chứng giữa ba thuộc tính dân tộc, đại chúng và khoa học. Muốn vậy cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, quán triệt quan hệ biện chứng thống nhất hữu cơ giữa ba thuộc tính dân tộc, đại chúng, khoa học của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Như trên đã trình bày, ba thuộc tính dân tộc, đại chúng, khoa học của nền văn hóa Việt Nam thống nhất biện chứng hữu cơ với nhau. Mỗi thuộc tính đều đòi hỏi và bao gồm hai thuộc tính kia và ngược lại. Thiếu một trong ba thuộc tính thì nền văn hóa không những không phát triển mà còn có nguy cơ trở thành văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, tự ti, phát xít, dân tộc hẹp hòi, v.v.. Nếu thực hiện tốt điều này thì cũng sẽ làm cho nền văn hóa đó trở nên dân chủ. Nghĩa là phát huy dân chủ của quảng đại quần chúng nhân dân cho phát triển văn hóa. Tất nhiên, dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao ý thức cá nhân, ý thức trách nhiệm xã hội và ý thức trách nhiệm công dân của mỗi người, trách nhiệm đề cao trật tự, kỷ cương xã hội và thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, trách nhiệm của công dân trước pháp luật trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII về tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình1. Bởi lẽ, bản sắc dân tộc của văn hóa chính là hệ giá trị văn hóa. Nhưng hệ giá trị văn hóa không tách rời hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị quốc gia. Đồng thời với việc thực hiện những giải pháp đột phá ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, tiêu cực xã hội cần “Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”2. Bởi lẽ, bảo vệ và phát huy hiệu quả các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam chính là tăng cường, củng cố tính dân tộc trong phát triển văn hóa bền vững. Để tăng cường, củng cố tính đại chúng, phục vụ nhân dân, cần có cơ chế, chính sách, giải pháp cụ thể để “cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143, 143.
thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa”1. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, giai tầng xã hội.
Thứ ba, tăng cường, củng cố tính khoa học của văn hóa dân tộc bằng cách phê phán, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan; xây dựng các chuẩn mực văn hóa lãnh đạo, quản lý; xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh; vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới2. Đồng thời “Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”3. Trong quá trình kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại cần thực hiện chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân, tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp”4.
Thứ tư, “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa”5. Trong lãnh đạo văn hóa, một mặt tôn trọng tự do sáng tạo thực sự của văn nghệ sĩ, của quần chúng nhân dân, mặt khác đề cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, đạo đức cá nhân của họ, gắn với đạo đức xã hội, kỷ cương xã hội, tạo ra sự đồng thuận trong phát triển văn hóa bền vững. Nhà nước tăng cường đầu tư, khai thác, phát huy tối đa các nguồn lực văn hóa gắn với đổi mới phương thức quản lý, kiểm tra, giám sát bảo đảm hiệu quả đầu tư.

_____________

1, 2, 3, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.144, 144-145, 147, 146.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.94-95.
Đổi mới các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở. Đổi mới công tác đào tạo, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu về văn hóa. Lãnh đạo, quản lý về văn hóa cũng phải bằng và thông qua văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử, văn hóa chia sẻ, văn hóa khoan dung, văn hóa tin tưởng, v.v. không nên chỉ bằng mệnh lệnh hành chính, cứng nhắc. Chỉ trên cơ sở đó mới định hướng và quản lý được sự phát triển văn hóa bền vững.
Thứ năm, phát huy vai trò tích cực của quảng đại quần chúng nhân dân trong củng cố, tăng cường tính dân tộc, đại chúng, khoa học để phát triển văn hóa bền vững. Văn hóa của bất kỳ dân tộc nào muốn được phát triển bền vững đều phải xuất phát từ nhân dân, dựa vào nhân dân. Bản thân đội ngũ văn nghệ sĩ - những người sáng tạo văn học, nghệ thuật - cũng là nhân dân. Nhân dân còn là đông đảo các văn nghệ sĩ không chuyên nghiệp, là thính giả, độc giả, là khách tham quan các bảo tàng văn hóa, nghệ thuật, v.v.. - là những người tạo nên chất liệu cho sáng tạo văn hóa và hưởng thụ văn hóa dân tộc. Do vậy, để phát triển văn hóa bền vững với những thuộc tính dân tộc, đại chúng, khoa học thì không thể không phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. Do vậy, phải tìm mọi cách lôi cuốn nhân dân vào củng cố, tằng cường tính dân tộc, đại chúng, khoa học để phát triển văn hóa bền vững.
Trên đây là năm biện pháp chủ yếu nhằm quán triệt sự thống nhất hữu cơ giữa tính dân tộc, đại chúng, khoa học để phát triển văn hóa Việt Nam bền vững. Các giải pháp này phải được tổ chức, thực hiện đồng bộ trên thực tế thì mới mang lại hiệu quả thiết thực. Qua đây cũng cho thấy, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đã trải qua 80 năm nhưng linh hồn sống của Đề cương vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không thể không kế thừa những giá trị của Đề cương văn hóa này, trong đó có các thuộc tính dân tộc, đại chúng, khoa học.
 
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM NHÌN TỪ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
TS. LÊ THỊ PHƯỢNG)
1. Quan điểm của Đảng về văn hóa và phát triển bền vững
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, khái niệm văn hóa vẫn được hiểu từ nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhiều khái niệm về văn hóa đã được đưa ra. Chẳng hạn, theo E.B. Taylor (1871), “văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội”. F. Mayor trong chương trình Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa đã phát biểu “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”1. Ở Việt Nam, năm 1943, Hồ Chí Minh cũng đưa ra quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa, văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu

_____________

) Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
1. theo tài liệu của Ủy ban Quốc gia thập kỷ thế giới phát triển văn hóa.
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (tr.458). Một cách bao quát, văn hóa có thể được hiểu từ nhiều khía cạnh, nó có thể như là một hệ giá trị phổ biến, phổ quát của nhân loại; hoặc như một hoạt động cho sự phát triển, sự sáng tạo; hay văn hóa cũng có thể được xem như một hệ thống tiêu chí đánh giá, điều chỉnh hành vi, cách ứng xử, đạo đức của con người.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đưa đến những biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt trong đời sống của con người, từ kinh tế, xã hội đến môi trường song cũng gây ra nhiều bất ổn khó lường, vấn đề phát triển bền vững trở thành mục tiêu hướng đến của nhiều quốc gia trên thế giới. Ban đầu, thuật ngữ này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường1. Theo đó, phát triển bền vững là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...” (WCED, 1987). Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm một nền kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. Tuy nhiên, sau khi UNESCO phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa 1988-1997 thì văn hóa được nhìn nhận như một động lực để phát triển. Nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển, trong những năm gần đây, văn hóa đã được quan tâm và đưa ra thảo luận ở nhiều diễn đàn, từ phạm vi quốc gia đến quốc tế, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, phát triển không chỉ còn được nhìn nhận thuần túy ở khía cạnh kinh tế mà còn bao gồm cả sự công bằng xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người. Phát triển không còn được hiểu là sự thay đổi tuyến tính theo một nấc thang mang tính phổ quát và đồng nhất, mà là các mô hình phát triển đa dạng, ở các xã hội khác nhau với các truyền thống khác nhau, gắn kết và

_____________

  1. Thuật ngữ này được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1980 bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN, được nhấn mạnh hơn trong Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland) (1987) và được hoàn chỉnh hơn qua các hội nghị của Liên hợp quốc như Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002.
phù hợp với bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, đến năm 2015, trong 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 mà UNESCO đưa ra để thay thế cho Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, văn hóa được coi là một trong bốn trụ cột phát triển bền vững, bên cạnh các trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường.
Đối với Việt Nam, phát triển bền vững vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển, văn hóa luôn có vị trí và vai trò nhất định. Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng đã xác định văn hóa giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong cách mạng, kháng chiến và phát triển kinh tế - xã hội. Trong bản Đề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên) vào tháng 2/1943, văn hóa được coi là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cách mạng không chỉ được thực hiện trên mặt trận kinh tế, chính trị mà còn được tiến hành trên mặt trận văn hóa. Trên tinh thần đó, năm 1946, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra luận điểm: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Luận điểm này cho thấy phạm vi rộng lớn, tầm ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành nguyên tắc quan trọng, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp nối tinh thần của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 cũng như luận điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó, quan điểm đầu tiên được Nghị quyết xác định “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII và XIII sau này, cùng với các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa cũng luôn là vấn đề được chú ý trong các chương trình phát triển bền vững: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống”. Có thể thấy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là những điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền vững.
  1. Vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững nhìn từ quan điểm của Đảng

Văn hóa là nền tảng tinh thần

Nền tảng tinh thần có thể được hiểu là “toàn bộ các giá trị sáng tạo thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, phương thức sống và hoạt động, tính nhân văn của con người, hợp thành nền tảng tinh thần để bảo đảm cho một xã hội phát triển hài hòa cân đối, bền vững”. Cụ thể hơn, đó là hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý đạt chuẩn mực chân, thiện, mỹ... thể hiện qua hệ thống di sản văn hóa với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Vai trò nền tảng tinh thần của xã hội của văn hóa chính là sức mạnh của hệ thống giá trị của văn hóa Việt Nam từ trong quá khứ đến hiện tại. Các giá trị này được thấm nhuần trong mỗi cá nhân và trong cả cộng đồng, được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc, chi phối hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa.
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị trung ương 9 khóa XI (2014), một trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nghị quyết Đại hội XIII (2021) của Đảng tiếp tục xác lập vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước.

Văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững

Theo Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ kinh tế hoặc xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau; nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng, cả kinh tế, văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu... Phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ vị trí trung tâm và vai trò điều tiết xã hội (dẫn theo Đinh Xuân Dũng, 2019). Có thể nói, kể từ Đề cương văn hóa năm 1943 cho đến nay, văn hóa luôn được khẳng định một trong những mục tiêu của quá trình phát triển. Ba nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa với những nội hàm cụ thể được đề ra từ bản đề cương đã được vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với bối cảnh lịch sử - xã hội của đất nước ở mỗi thời kỳ lịch sử. “Nếu như văn hóa kháng chiến là sự kết tinh của tinh thần yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng dân tộc, diệt giặc ngoại xâm, diệt giặc đói, giặc dốt, thì trong thời bình, hội nhập quốc tế, đó lại là khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, văn hóa làm nên sức mạnh mềm, bản lĩnh và sự tự tin Việt Nam”.
Sau khi đất nước giành được độc lập, dù đặt trọng tâm vào khôi phục, phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng văn hóa vẫn là mục tiêu hướng đến của mỗi giai đoạn phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII cũng nhấn mạnh: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”. Tinh thần đó được tiếp tục qua các kỳ đại hội Đảng sau này.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Nghị quyết đã khẳng định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Đến Đại hội XII, Đảng nhất quán đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước với mục tiêu: “Làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nếu cho rằng văn hóa là tất cả những sản phẩm do con người tạo ra thì việc xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cũng chính là thực hiện mục tiêu phát triển văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đồng thời xem con người là mục tiêu và là động lực chính của sự phát triển. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới sự phát triển con người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự phát triển. Văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững
Việt Nam có nguồn lực văn hóa đa dạng và phong phú với những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trải dài trên khắp cả nước. Trong đó, nhiều di sản đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa đại diện của nhân loại. Đây là nguồn lực có giá trị to lớn, có thể khai thác để phát triển kinh tế cũng như hội nhập quốc tế. Xuyên suốt từ Đại hội VIII (1998) cho đến Đại hội XIII (2021), văn hóa luôn được xác định một cách nhất quán là “động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước” (Văn kiện Đại hội Đảng XIII). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI nhấn mạnh, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; khẳng định cần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đại hội XIII đã nhấn mạnh những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt khi phát triển văn hóa nhằm mục đích: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc... và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Như vậy, phát triển văn hóa là thúc đẩy sức mạnh nội sinh, đưa văn hóa vào trung tâm của quá trình phát triển phù hợp với bối cảnh mới, văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội...
Trong nguồn lực văn hóa, yếu tố con người được đặc biệt quan tâm và thực tế từ nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, đầu tư cho văn hóa, cho phát triển, chính là đầu tư cho con người. Trong bối cảnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có nhiều đột phá, tác động sâu rộng, đa chiều trên phạm vi toàn cầu, phát triển bền vững đang trở thành xu thế chung trên toàn thế giới, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 đã nhấn mạnh đến vấn đề phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam theo quan điểm: Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.
*
*     *
Quá trình thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua đã cho thấy, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm nhất định đối với phát triển văn hóa. Mặc dù vậy, cho đến nay, văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Điều này đã được Đại hội XIII thẳng thắn chỉ ra. Từ đó, Đại hội đề ra định hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Trên cơ sở đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trên cương vị người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, thay mặt nhân dân đã thể hiện quan điểm đối với việc phát triển văn hóa đồng thời cho thấy vai trò, tầm ảnh hưởng của văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất nước trong những năm sắp tới: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”. Có thể nói, từ các nguyên tắc “dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa” mà Đề cương văn hóa 1943 vạch ra, mỗi giai đoạn, quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững lại được cụ thể hóa, ngày càng trở nên toàn diện hơn, sâu sắc hơn, gắn liền với thực tế phát triển của đất nước.
 
BỐI CẢNH RA ĐỜI, NHỮNG GIÁ TRỊ CỐT LÕI
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ, THỜI ĐẠI
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” -
VĂN KIỆN MANG TẦM VÓC CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG TA VỀ VĂN HÓA
PGS. TS. ĐÀO DUY QUÁT*
Đ
 
ầu những năm 1940 của thế kỷ XX, “thời cuộc phát triển, tình hình thế giới và Đông Dương biến chuyển mau lẹ khác thường... Trước tình thế nghiêm trọng... Đáng lẽ lúc này một cuộc Đảng Đại hội hay một cuộc toàn thể Trung ương hội nghị phải họp để quyết định những vấn đề mới”1. Những quyết định này “sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc vận động cách mạng dân tộc giải phóng Đông Dương”2. Do nhiều khó khăn trở ngại chưa thể vượt qua, nhất là trong hoàn cảnh phát xít Nhật và thực dân Pháp điên cuồng đàn áp, khủng bố các lực lượng cách mạng, nhưng tình thế không thể trì hoãn, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã tiến hành Hội nghị tại Võng La, một địa điểm An toàn khu của Trung ương (nay là xã Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội, từ ngày 25 đến ngày 28/2/1945) để “Nhận xét tình hình mới” và ra “nghị quyết những điều cần thiết,... công việc phải làm ngay đặng mau hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng”3. Tại hội nghị lịch sử này, Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo được thông qua.

_____________

* Nguyên Phó Trưởng Ban Thường trực, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.272, 272, 272-273.
Đảng ta công bố bản Đề cương văn hóa trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai diễn biến rất mau lẹ và quyết liệt. Từ ngày 22/6/1941, khi phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô, cuộc chiến tranh này đã thay đổi tính chất: “Nó không còn là đế quốc chủ nghĩa chiến tranh nữa, mà là chiến tranh phát xít xâm lược và chống phát xít xâm lược. Thế giới đã rõ ràng chia làm hai mặt trận: 1- Mặt trận phát xít xâm lược gồm các đế quốc, phát xít Đức Ý - Nhật, các chính phủ thuộc địa tay sai của Đức - Ý - Nhật, v.v.. 2- Mặt trận dân chủ chống phát xít xâm lược gồm có các nước dân chủ (hay gọi là dân chủ) Liên Xô - Trung Quốc - Anh - Mỹ và nói chung các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trên thế giới”1. Sau chiến thắng oanh liệt ở Mátxcơva tháng 12/1941, cuộc phản công mùa đông năm 1942 của Liên Xô thắng lợi, với nhiều chiến thắng oanh liệt. Cuộc phản công mùa thu và mùa đông năm 1942 của Trung Quốc có kết quả quan trọng. Cùng với các chiến thắng của Anh - Mỹ và sự tan rã của phát xít Pháp ở Bắc Phi. Năm 1943, Liên Xô bắt đầu cuộc tổng phản công đánh đuổi lực lượng phát xít ra khỏi đất nước. Ngày 1/1/1942 tại Washington, 26 nước trong đó có Liên Xô - Mỹ Anh ký tuyên bố Liên hợp quốc, đánh dấu sự hình thành mặt trận Đồng minh thống nhất chống phát xít. Ngày 26/5/1942 và Ngày 11/7/1942, Liên Xô đã ký kết Hiệp ước giữa Liên Xô và Anh với giữa Liên Xô với Mỹ về việc Liên minh chống phát xít Đức cùng tay sai, và năm 1943 mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công phát xít Nhật ở Viễn Đông. Năm 1943 sẽ bùng nổ nhiều cuộc cách mạng của nhân dân ở các nước tư bản và thuộc địa.
Ở Việt Nam, Chính phủ Pháp thực hiện chính sách đầu hàng phát xít Nhật để duy trì ách thống trị thực dân của mình. Còn phát xít Nhật lợi dụng chính sách đầu hàng của Đờcu để thực hiện âm mưu biến Việt Nam thành một nước bán thuộc địa của Nhật, do đó chúng đẩy mạnh chính sách xâm lấn Việt Nam về mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa đồng thời dùng Việt Nam làm căn cứ đánh Trung Quốc và Ấn Độ. Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, thực dân Pháp và phát xít Nhật tung vào Việt Nam các loại triết thuyết thù địch như: Chủ nghĩa phục cổ, tuyên truyền

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.274.
văn hóa Trung cổ, văn hóa ngu dân, chủ nghĩa hư vô tờrốtkít, chủ nghĩa Đại Đông Á, thuyết “âu hóa”, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa đầu hàng. Phát xít Nhật, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các nhà văn hóa cách mạng, dân chủ, mặt khác chúng ra sức mua chuộc, lôi kéo một số trí thức văn nghệ sĩ vào các tổ chức văn hóa trá hình để làm công cụ truyền bá văn hóa phát xít, thực dân và điên cuồng kìm kẹp chống phá trào lưu văn hóa tân dân chủ. Về mặt kinh tế - xã hội, nhân dân Việt Nam rên siết dưới ách áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân, phát xít, phong kiến. Văn hóa Việt Nam lúc này đang bị chế độ phát xít thực dân kìm kẹp, nhiều nhà văn hóa, văn nghệ sĩ đứng trước sự bế tắc, mất phương hướng. Do các tầng lớp nhân dân ta ngày càng đồng tình ủng hộ đường lối, chủ trương đánh đuổi phát xít, thực dân giành độc lập dân tộc của Đảng, phong trào cách mạng ở nước ta sau Nghị quyết Trung ương 8 (5/1941) đến năm 1943 đã có bước phát triển mạnh mẽ: Cuộc đấu tranh chính trị, kinh tế diễn ra trên cả ba miền; đáng chú ý nhất cuộc vũ trang tranh đấu chống Nhật - Pháp của Đội quân du kích Bắc Sơn, Đình Cả từ tháng 8/1941 đến tháng 8/1942. Trong thời kỳ này cũng đã “có nhiều cuộc tranh đấu võ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa”1. Từ tình hình trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đi tới nhận định: “Đứng trước làn sóng cách mạng thế giới ngày một dâng cao và cuộc phản công của Liên Xô và phe dân chủ ngày một thắng lợi; đứng trước nhân dân Đông Dương cực khổ và ngày một cách mạng hóa; công việc sửa soạn chiến đấu lật đổ quyền thống trị của phát xít Nhật - Pháp là rất cần”2. Ban Thường vụ Trung ương chỉ rõ: “Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) đã xác định: “Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”. Nhưng xét kỹ đến nay Đảng ta chưa làm được một phần nhỏ của nhiệm vụ ấy”3. Ban Thường vụ Trung ương chủ trương: “toàn bộ công tác của Đảng ta lúc này phải nhằm vào chỗ chuẩn bị khởi nghĩa, để một khi cơ hội đến kịp thời đưa quần chúng nhân dân ra chiến đấu”3. Tại hội nghị lịch sử này, Ban Thường vụ Trung ương đã quyết định năm vấn đề mới, cấp bách trong đó chỉ thị cho toàn Đảng phải kiên

_____________

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.290, 297, 298, 298.
quyết hành động thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ giải pháp trong kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa của Trung ương. Trong nhiệm vụ giải pháp về vận động sâu rộng nhằm động viên mọi giai tầng xã hội tham gia cuộc tổng khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương đã quyết định một chủ trương lớn: tiến hành cuộc vận động văn hóa. Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc, chống văn hóa phát xít. Do đó, tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương này, Đảng ta đã thông qua Đề cương về văn hóa Việt Nam!
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Đề cương về văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã đọc một bài diễn văn quan trọng đề cập tới những nội dung cơ bản, những giá trị cốt lõi của văn kiện lịch sử này: Đề cương về văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu sắc các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam. Nhưng Đề cương văn hóa đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam1.
Trên cơ sở phương pháp luận mácxít, gắn chặt với phân tích sâu sắc thực tiễn, nhất là thực trạng của nền văn hóa Việt Nam dưới ách thống trị, kìm kẹp, nô dịch của phát xít Nhật - Pháp, Đề cương đã trình bày những thành tố chủ yếu của nội hàm văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật (khoa học), nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) cùng mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố này. Trong ba thành tố chủ yếu trên, thành tố tư tưởng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của văn hóa. Tư tưởng liên quan trực tiếp đến thế giới quan, nhân sinh quan, đến nhận thức, tình cảm, đến cách ứng xử của con người đối với xã hội, đối với tự nhiên, đối với bản thân. Tư tưởng, đạo đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa. Còn thành tố học thuật (khoa học) là yếu tố nền tảng, quyết định đến tính chất, chất lượng của nền văn hóa. Học thuật liên quan trực tiếp đến tri thức khoa học, đến học vấn, đến sự hiểu biết, là điều kiện để con người khám phá và cải tạo thế giới. Do đó, học thuật khoa học liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục, đào tạo, đến trao truyền tri thức, bồi dưỡng nâng cao dân trí... Vì

_____________

1. Xem Bốn mươi năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
vậy Học thuật, khoa học đòi hỏi mọi người nêu cao tinh thần không ngừng học tập, học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, nâng cao tri thức, năng lực hoạt động thực tiễn. Còn thành tố nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) là lĩnh vực rất quan trọng và tinh tế của văn hóa, nó thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người. Văn học có vai trò quan trọng không gì có thể thay thế trong việc giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách, lối sống tốt đẹp cho con người.
Đề cập đến vị trí và vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, Đề cương khẳng định: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới có ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1. Trước khi trình bày các quan điểm của Đảng về cách mạng văn hóa, Đề cương đã đưa ra hai ức thuyết (giả thuyết) về tiền đồ văn hóa Việt Nam: “Nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn và thấp kém. Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”2. Và Đề cương khẳng định: “Cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên thực sự”3. Tiếp theo, Đề cương đã trình bày các quan điểm của Đảng ta về vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam. Trước hết, Đề cương trình bày tính tất yếu, điều kiện tiền đề tiến hành thành công cách mạng văn hóa: a) “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội. b) Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. c) Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị). Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”4. Về mục tiêu của cách mạng văn hóa là văn hóa xã hội chủ nghĩa. Về mối quan hệ giữa cách mạng văn hóa Việt Nam và cách mạng dân tộc giải phóng, Đề

_____________

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13, 19-20, 20, 21-24.
cương nhấn mạnh: Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển. Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp may mắn nhất là đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập, dựng nên một nền văn hóa mới. Phải tiến lên thực hiện cách mạng xã hội ở Đông Dương, gây dựng một nền văn hóa xã hội ở khắp Đông Dương. Đề cương cũng làm rõ mục tiêu trước mắt của cuộc vận động văn hóa ở Việt Nam là xây dựng nền văn hóa mới, tuy chưa phải là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa mới của Việt Nam có tính chất dân tộc và dân chủ mới và trong giai đoạn này nó là cách mạng và tiến bộ nhất ở Đông Dương.
Đề cương đã xác định 3 nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa ở Việt Nam thời kỳ này là:
  • Dân tộc hóa: Chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập.
  • Đại chúng hóa: Chống lại mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng.
  • Khoa học hóa: Chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ.
Tính thuyết phục và chiến đấu cao của các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức hành động của Đề cương văn hóa đã thức tỉnh những trí thức, văn nghệ sĩ đang bi quan, dao động, mất phương hướng nay thấy được: muốn giải phóng mình thì phải tự nguyện dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc, trí thức, văn nghệ sĩ phải là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng - văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc. Văn kiện lịch sử này thực sự đã trở thành ngọn cờ tập hợp, tổ chức và cổ vũ hành động đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ cả nước vào cuộc chiến đấu phá vỡ xiềng xích của văn hóa phát xít, thực dân, phát huy mạnh mẽ sức mạnh văn hóa tinh thần của toàn dân tộc cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cương lĩnh là văn kiện cơ bản xác định mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa... trong thời kỳ lịch sử nhất định của một chính đảng, một nhà nước hoặc một tổ chức chính trị xã hội, một phong trào cách mạng. Cương lĩnh là ngọn cờ tập hợp lực lượng để thực hiện đường lối mục tiêu đề ra. Cương lĩnh đúng đắn phản ánh tiến trình khách quan của cuộc vận động, phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng, thúc đẩy cuộc vận động phát triển thắng lợi. Từ quan niệm chung trên đây, đối chiếu với những nội dung được trình bày trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 cùng sức mạnh văn hóa tinh thần được tạo ra trong cuộc vận động văn hóa từ tháng 2/1943 đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Có thể khẳng định rằng: Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa.
80 năm qua, những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo - những giá trị cốt lõi của Đề cương văn hóa vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường, định hướng cho tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trong tình cảnh tập trung chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (11/1946) và Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (7/1948). Hai sự kiện lịch sử này có ý nghĩa như Hội nghị Diên Hồng về văn hóa, khẳng định tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vị trí, vai trò của văn hóa, về đường lối xây dựng “một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân” và “nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, để “đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập tự cường và tự chủ”. “Xây dựng nền văn hóa mới phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích mình”. “Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông lẫn đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình là biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng, số phận của dân tộc ta ở trong tay ta, văn hóa phải soi đường quốc dân đi”1. Và “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng... các nhà văn hóa cần được tổ chức chặt chẽ đi sâu vào quần

_____________

1. Tất cả các đoạn trong ngoặc kép đều trích trong bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (Báo Cứu quốc, ngày 25/11/1946).
chúng. Nhiệm vụ của văn hóa chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của quốc dân... mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”. “Đang có phong trào Thi đua ái quốc của toàn dân, tôi mong rằng Hội nghị sẽ có một chương trình Thi đua ái quốc về mặt trận văn hóa”1.
Sau hội nghị văn hóa, với phương châm hành động “Văn hóa hóa kháng chiến”, “Kháng chiến hóa văn hóa”, “Xây dựng đời sống mới”, văn hóa Việt Nam đã thực sự là động lực tinh thần để huy động tất cả mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng năm châu, chấn động địa cầu.
Từ năm 1954, cả nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giành thống nhất nước nhà. Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), Đảng ta xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, quan điểm chỉ đạo tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, thiết thực phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đảng coi trọng lãnh đạo phát triển nền văn nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thanh, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng trong các lĩnh vực đó; đồng thời Đảng đặc biệt quan tâm lãnh đạo công tác văn hóa quần chúng, xây dựng các hoạt động và các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa từ năm 1960 đến năm 1975 đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, các lực lượng làm văn hóa của toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược vừa kiến quốc vừa kháng chiến, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1986, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến

_____________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.577.
văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng và đối ngoại. Đường lối đổi mới của Đảng trong lĩnh vực văn hóa kết tinh trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Kế thừa và phát triển sáng tạo các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, trong đường lối xây dựng nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân, trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, nhận thức đúng đắn quy luật vận động của các thành tố văn hóa trong thời kỳ phát triển mới của dân tộc, Đảng ta khẳng định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hai tính chất chủ yếu: Tiên tiến và dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc. Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Về mục tiêu, xác định xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc nhân văn dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ định hướng mục tiêu, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo: 1- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. 2- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. 3- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản yêu nước, nhân ái, nghĩa tình trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. 4- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. 5- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Đường lối phát triển văn hóa của Đảng trong thời kỳ mới đã xác định 6 nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa và con người đó là:
  1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
  2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
  3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế.
  4. Nâng cao chất lượng hiệu quả các hoạt động văn hóa.
  5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng hoàn thiện thị trường văn hóa.
  6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa.
Đường lối phát triển văn hóa của Đảng đã xác định hệ thống đồng bộ các giải pháp về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa. Nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định mục tiêu đưa đất nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới đồng bộ và toàn diện đất nước ta là phải tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực, sức mạnh nội sinh phát triển bền vững” và “soi đường cho quốc dân đi”, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ vận hội, vượt qua mọi khó khăn thách thức để đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Do đó phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, là một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII, vấn đề phát triển văn hóa được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc vấn từ quan điểm, mục tiêu, định hướng lớn, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược. Báo cáo chính trị đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”1.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực văn hóa, kế thừa và phát huy sáng tạo phương thức lãnh đạo văn hóa của Đảng, Đảng ta đã tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc (2021) với 600 đại biểu là cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa của các lực lượng ở các lĩnh vực của đời sống văn hóa cùng các đại biểu tiêu biểu cho đội ngũ trí thức các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ của cả nước. Trong diễn văn khai mạc Hội nghị lịch sử này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân: Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, chúng ta cần tập trung thực hiện thật tốt 6 nhiệm vụ trọng tâm:
  • Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước..., phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam.
  • Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.I, tr.34.
Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị quốc gia dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với giá trị truyền thống và giá trị thời đại.
  • Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa.
  • Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân. Đề cao phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ của những người làm công tác văn hóa.
  • Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị và văn hóa, về đạo đức, kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thực sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá của con người Việt Nam.
  • Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi và điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Để chấn hưng và phát triển nền văn hóa, xây dựng con người theo phương hướng nói trên trong thời gian tới chúng ta cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả 4 giải pháp sau:
  • Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển xây dựng con người trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
  • Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới.
  • Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng miền, đồng bào các dân tộc kết hợp với tiếp thu văn hóa thời đại.
  • Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội. Phát huy những giá trị tích cực về thuần phong mỹ tục của gia đình và xã hội... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực, chống sự suy thoái về tư tưởng đạo đức và lối sống.
Để chấn hưng và phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam trong thời kỳ mới theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Tiền hô, hậu ủng”, “Nhất hô, bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” thì chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức lãnh đạo: Công tác tư tưởng phải gắn bó chặt chẽ với công tác tổ chức, cán bộ, với cơ chế chính sách trong thực hiện chương trình quốc gia có mục tiêu chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đến năm 2045.
Từ mô hình thành công về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ XII và XIII, xin kiến nghị Trung ương Đảng thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về chấn hưng và phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam đến năm 2045. Trung ương cử một đồng chí lãnh đạo chủ chốt làm Trưởng ban. Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan thường trực. Đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận có liên quan đến sự nghiệp chấn hưng văn hóa Việt Nam sẽ tham gia Ban Chỉ đạo này.
 
80 NĂM “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” -

NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

ThS. LÊ THỊ HỒNG QUYÊN*
T
 
ại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”- nhấn mạnh vai trò dẫn dắt, định hướng, soi đường của văn hóa đối với sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Văn hóa, theo ý nghĩa rộng nhất là những gì tốt đẹp thuộc về con người, đã và đang ngày càng trở thành một phạm trù căn bản, gắn liền với mọi mặt của đời sống con người. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước, đã luôn khẳng định vai trò và tầm quan trọng của văn hóa trong phát triển. Điều này được cụ thể hóa bằng nhiều chủ trương, đường lối của Đảng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, trong đó, “Đề cương về văn hóa Việt Nam” là một “văn kiện” tiêu biểu và mang tính “cương lĩnh”. 80 năm qua, Đề cương vẫn để lại những bài học lịch sử to lớn, những giá trị lý luận và thực tiễn đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” với lịch sử hình thành và phát triển đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử dân tộc, xác lập sự hình thành đường lối văn hóa của Đảng - Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, trên cơ sở thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng đã xác định chủ trương, đường lối văn hóa phù hợp qua từng thời kỳ lịch sử.

_____________

* Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện quan trọng đầu tiên về văn hóa của Đảng Cộng sản Đông Dương, do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 2/1943. Bản đề cương đã nêu lên những nội dung cơ bản về văn hóa Việt Nam mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị:
Thứ nhất, Đề cương nêu rõ quan điểm của Đảng: a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động; b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; c) Có lãnh đạo phong trào văn hóa, Đảng mới có ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Thứ hai, Đề cương xác định phạm vi văn hóa bao gồm những lĩnh vực: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Nghĩa là, văn hóa phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhiều thành tố. Quan niệm được đưa ra cách đây 80 năm nhưng đến ngày nay vẫn mang tính thời sự, thể hiện cách nhìn tiến bộ của Đảng đối với những vấn đề phức tạp trên mặt trận văn hóa.
Thứ ba, Đề cương nêu vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, trong đó khẳng định: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội; Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo; Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công”2. Có thể thấy, Đề cương tập trung phân tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hóa nhằm mục đích thực hiện nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vạch rõ nhiệm vụ của các nhà văn hóa Việt Nam là chống văn hóa phát xít, phong kiến lạc hậu, nô dịch, ngu dân, mị dân.
Thứ tư, Đề cương nêu lên tính chất của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa - đây cũng là mục tiêu toàn Đảng, toàn dân cần phấn đấu.
Thứ năm, Đề cương chủ trương xây dựng nền văn hóa dân chủ với ba tính chất cơ bản, cũng là ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam: dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương

_____________

1, 2. PGS.TS. Phạm Duy Đức (Chủ biên): Đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010, tr.49, 51.
hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng) và khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Ba nguyên tắc này có mối quan hệ qua lại chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau nhằm chống lại ba căn bệnh trầm trọng của văn hóa lúc bấy giờ, mặt khác chúng định hướng cho việc tạo dựng những đặc trưng bản chất của văn hóa Việt Nam: vừa có tính dân tộc vừa có tính nhân dân vừa có tính khoa học.
Đề cương văn hóa đã phát huy giá trị và tinh thần của một văn kiện mang tầm vóc “cương lĩnh”, trở thành “kim chỉ nam” cho hoạt động văn hóa qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng nền văn hóa có nội dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
 Năm 1987, ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI xác định đường lối đổi mới, trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ chủ trương xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định cần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 1998, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, lần đầu tiên Đảng ra Nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm 2014, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Năm 2021, Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”1.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.115-116.
Như vậy, trong suốt chiều dài của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đề cương văn hóa vừa mang tính kế thừa vừa mang tính nhất quán những chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa. Văn kiện này vì vậy thực sự trở thành cẩm nang có tác dụng soi đường, tích luỹ tinh hoa văn hóa qua hàng ngàn năm lịch sử. Trải qua 80 năm, tinh thần của Đề cương vẫn còn nguyên giá trị, phù hợp với thực tiễn và nguyện vọng thiết tha của quần chúng nhân dân; thể hiện sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa; đề cập được nhiều vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam định hướng cho hoạt động văn hóa và những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Đề cương văn hóa vì vậy được xem là “Cương lĩnh văn hóa” của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đề cương về văn hóa Việt Nam - tiền đề lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa và phát triển
Có thể nói, từ sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, qua các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cập và nhấn mạnh đến vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xin nhắc lại một quan điểm quan trọng trong Đề cương: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động”1. Quan điểm này đề cao vai trò của mặt trận văn hóa bên cạnh mặt trận kinh tế và chính trị. Cho đến nay, ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị.
Trong bối cảnh hiện nay, sự vận hành của nền kinh tế thị trường một mặt mang lại những yếu tố tích cực nhưng mặt khác cũng xuất hiện những xu hướng cực đoan như kinh doanh chạy theo lợi nhuận bất chấp đạo lý và nhân phẩm, phá hủy di tích và cảnh quan văn hóa, tàn phá môi trường thiên nhiên, đề cao lợi ích vật chất, xem nhẹ những giá trị tinh thần... Những mặt trái đó của nền kinh tế thị trường đã buộc Đảng và Nhà nước nhìn nhận lại định hướng phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, từ đó Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phúc lợi cho toàn dân; bảo đảm sự cân bằng giữa phát triển

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2022, tr.12.
vật chất và phát triển tinh thần, bảo đảm sự duy trì và phát triển những giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; trong đó yếu tố văn hóa luôn được quan tâm đặc biệt. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, được biểu hiện qua những giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc.
Theo định hướng đó, văn hóa phải thực sự trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, bảo đảm cho sự phát triển song song của văn hóa và kinh tế trong đó nguồn lực con người là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. “Phát triển văn hóa không có nghĩa là thay đổi văn hóa theo kinh tế... Phát triển văn hóa trước hết có thể là duy trì những giá trị còn nhiều sức sống nhưng lại có nguy cơ mất đi”1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là sự cụ thể hóa quan điểm trên của Đảng và Nhà nước về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”2. Đây cũng là sự kế thừa từ Đề cương văn hóa 1943 và cũng là cơ sở để hình thành các chủ trương, chính sách về văn hóa trong thời kỳ mới.
Không dừng lại ở việc nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của văn hóa đối với quá trình đổi mới đất nước, Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX về công tác văn hóa (2003) còn xác lập vị trí của văn hóa, tạo nên một kết cấu chặt chẽ và đồng bộ giữa nhiệm vụ kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt với xây dựng văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo thế chân vạc vững chắc cho quá trình phát triển đất nước. Xây dựng và phát triển văn hóa cũng có nghĩa là xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh sẽ không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản: Thứ nhất,

_____________

  1. GS.TS. Đỗ Huy: Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập và phát triển, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013, tr.88.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55.
văn hóa tham gia vào quá trình sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho con người; Thứ hai, văn hóa đóng vai trò định hướng, điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến một nền kinh tế lành mạnh, hài hòa giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững. Kinh tế tri thức gắn liền với năng lực và trình độ của chủ thể sáng tạo văn hóa phải là những yếu tố trung tâm của sự phát triển. Thực tế ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... hiện nay cho thấy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế đã gần như không còn bàn cãi. Một trong những nguyên nhân tạo nên những thành công đó chính là ở sự đầu tư cho văn hóa, giáo dục, công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo trong đó ưu tiên hàng đầu là yếu tố con người.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI tiếp tục nhấn mạnh: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”1. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh một lần nữa quan điểm này, cho thấy sự kiên định, tính nhất quán của chủ trương, đường lối về vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước.
Tóm lại, để văn hóa đóng góp tích cực vào sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng nền văn hóa mang tính kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Muốn như vậy, trong hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội, chính sách văn hóa nhằm phát huy năng lực tinh thần của con người phải được xem là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu. Từ quan điểm nhân văn, phát triển xã hội không xem kinh tế là cứu cánh. Xét đến cùng, kinh tế là nhân tố quyết định phát triển xã hội nhưng chủ thể phát triển kinh tế lại là con người xã hội, là cá nhân và cộng đồng. Phát triển kinh tế để phát triển văn hóa vì mục tiêu phục vụ con người và phát triển toàn diện con người, hoàn thiện nhân cách của mỗi người trong sự thống nhất hài hòa giữa giá trị vật chất và tinh thần, giữa cá nhân và cộng đồng. Nâng cao chất lượng nguồn lực con người, tài nguyên của mọi

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.
tài nguyên, nguồn lực của mọi nguồn lực, đó là giải pháp, chiến lược sâu xa để phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là câu trả lời cho bài toán văn hóa và phát triển ở nước ta hiện nay.
*
                                                                                       *         *
Nhìn lại một cách tổng quát, quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa suốt hơn 90 năm qua, có thể thấy sự hình thành và phát triển đường lối văn hóa của Đảng là một quá trình phấn đấu liên tục trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Trong quá trình đó, Đề cương về văn hóa Việt Nam được xem là một cột mốc, một dấu son quan trọng gắn liền nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ văn hóa trong một thời kỳ lịch sử đầy rối ren và biến động. Từ tiền đề lý luận của Đề cương, những chủ trương, đường lối về văn hóa và phát triển của Đảng luôn được kế thừa, bổ sung và tạo ra những giá trị to lớn trong đời sống thực tiễn. Đề cương về văn hóa Việt Nam vì vậy là “đỉnh cao trí tuệ đương thời, là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh tinh thần to lớn mà đất nước đang cần”1, hướng văn hóa Việt Nam đi trên con đường hội nhập và phát triển.

_____________

1. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.20.
 
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

THEO TINH THẦN “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HIỆN NAY

TS. NGUYỄN NGỌC QUỲNH*
TS. NGUYỄN THỊ QUẾ HƯƠNG**
S
 
inh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm tôn giáo vừa là bộ phận cấu thành của văn hóa vừa là di sản văn hóa của nhân loại. Điều này đã được Người phát biểu rõ: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Cùng với định nghĩa về văn hóa là sự tổng hợp về mục đích mà các tôn giáo luôn hướng tới của Người: “Mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giê su đều giống nhau: Thích ca và Giêsu đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”2. Như vậy, hệ giá trị văn hóa truyền thống sẽ là cơ sở để các tôn giáo lựa chọn, bổ sung đưa vào trong giáo lý, giáo luật của mình để trở thành những giá trị văn hóa tôn giáo.

_____________

* Ban Tôn giáo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
** Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
  2. Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.239.
Hệ giá trị văn hóa hay nói cụ thể là hệ giá trị tôn giáo hiện nay còn được đánh giá là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Mặc khác, theo hướng nghiên cứu giá trị văn hóa thì sự tương tác giữa giá trị đạo đức và giá trị văn hóa được hình thành trong cộng đồng, xã hội, chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau, cùng nhau điều chỉnh, điều hòa hành vi của con người ngày một lương thiện và hài hòa trong mọi ứng xử giữa con người với con người và con người với thiên nhiên.
Hệ giá trị của tôn giáo, xét từ góc độ thực thể tôn giáo, có nhiều phương diện khác nhau như giá trị chân lý, giá trị luân lý và đạo đức của thực thể tôn giáo, giá trị thẩm mỹ của thực thể tôn giáo, giá trị ý thức hệ của thực thể tôn giáo, giá trị nhân từ của tôn giáo, giá trị truyền thống của thực thể tôn giáo, trong đó, giá trị mang tính tập thể trong định hướng các nguyên lý sống, chuẩn mực sống và phong cách sống (lối sống) là giá trị luân lý và đạo đức của thực thể tôn giáo. Mỗi một giá trị đều có những tiêu chí đánh giá của nó. Với Tiêu chí tôn giáo (tự có/nó): đó là niềm tin tôn giáo, hay niềm tin vào chân lý tối hậu ơ mổ i tôn giã o; nghi ĺ ễ (thực hành luật, nghi lễ và các hành vi thực hành khác); tính cộng đồng tôn giáo (nội bộ tôn giáo, cộng đồng tôn giáo và quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế với người ngoài tôn giáo)... Với tiêu chí luân lý và đạo đức: đó là những tương đồng và khác biệt giữa chuẩn mực đạo đức của tôn giáo với chuẩn mực đạo đức xã hội; giữa về chuẩn mực đạo đức của người có niềm tin tôn giáo và người không có niềm tin tôn giáo; giáo dục đạo đức tôn giáo có gì ưu trội so với giáo dục đạo đức xã hội thông thường hay ngược lại... hay Tiêu chí về lối sống, nếp sống: đó là sự giống và khác nhau trong nếp sống và tập quán của tín đồ tôn giáo và tín đồ không tôn giáo; hay trong đời sống hôn nhân tôn giáo với xã hội hiện đại... 1. Có thể nói, giá trị tôn giáo được thể hiện qua chính việc duy trì niềm tin tôn giáo (hoạt động truyền giáo, thực hành nghi lễ, thực hiện tình thương). Các giá trị đó ảnh hưởng, tác động đến đời sống xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tôn giáo và đạo đức đều là những hình thái ý thức xã hội, chúng có mối liên hệ biện chứng, tác động qua lại. Tác giả Nguyễn Tài Thư khi tìm hiểu

_____________

1. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: “Phát huy giá trị của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay”, Đề tài cấp Nhà nước, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (Chủ nhiệm), Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2015, tr.35-48.
về mối quan hệ giữa tôn giáo và đạo đức cũng như ảnh hưởng của nó đối với cộng đồng dân cư đều cho rằng luân lý, đạo đức tôn giáo góp phần vào việc ổn định trật tự xã hội, duy trì truyền thống luân lý của dân tộc: “... ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại như: sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác... Hơn nữa, ở các tôn giáo những quy định, quy phạm, những lời răn dạy, cấm đoán ngoài sự chế ước bởi những hình phạt nhất định, nó còn được chế ước bởi một đức tin vô hình giữa hy vọng và sợ hãi. Điều này phần nào giải thích được một thực tế rằng những vùng có đông đồng bào theo tôn giáo thì các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, đánh chửi nhau... giảm so với các vùng khác. Nét đặc thù riêng này của tôn giáo ngăn chặn các hành vi xấu xa, góp phần ổn định đời sống xã hội”1.
Với tư cách là một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cá nhân, gia đình, cộng đồng xã hội, quốc gia qua biểu hiện về cách ứng xử, lối sống, phong tục tập quán hàm chứa trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần. Điểm mạnh trong đạo đức tôn giáo đó là có nhiều điều phù hợp với đạo đức của con người, như Nghị quyết 24-NQ/TW (gọi tắt là Nghị quyết 24)2 đã khẳng định. Thông qua đó, tín đồ các tôn giáo tiếp nhận những tinh hoa đạo đức tôn giáo và thể hiện trong niềm tin và thực hành niềm tin tôn giáo, đặc biệt, nó chi phối, điều chỉnh hành vi của con người trong các ứng xử của con người với cộng đồng, góp phần làm cho xã hội ngày một văn minh3. Ngược lại, đạo đức cũng ảnh hưởng đến các giáo lý, giáo luật, kinh sách của các tôn giáo. Những chuẩn mực đạo đức có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hành vi, hành động, lối sống, phong tục của cá nhân, gia đình,

_____________

  1. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên): Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.104.
  2. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới có đoạn viết: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
  3. Nguyễn Thị Thùy Duyên, Hồ Thanh Tiến: “Mối quan hệ giữa tôn giáo và đạo đức” in trong Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: Đạo đức tôn giáo và thực tiễn giảng dạy đạo đức tôn giáo ở Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020, tr.25.
cộng đồng, quốc gia nào đó, nhằm thay đổi những chuẩn mực đạo đức tôn giáo phù hợp với mỗi tộc người, quốc gia mà tôn giáo đó truyền đến.
Như vậy, có thể khẳng định rằng đạo đức và tôn giáo có mối liên hệ biện chứng, đạo đức tôn giáo dựa vào đạo đức xã hội để điều chỉnh trong giáo lý, giáo luật, kinh sách cho phù hợp với văn hóa truyền thống của vùng đất nơi tôn giáo truyền đến, nhằm cảm hóa, điều chỉnh hành vi con người sống lương thiện hơn, nhân ái hơn, hoàn thiện nhân cách con người hướng đến chân thiện - mỹ. Do đó, để tìm hiểu những điểm tương đồng của đạo đức tôn giáo với Đề cương về văn hóa Việt Nam (gọi tắt là Đề cương), bài viết sẽ tìm hiểu về giá trị đạo đức của một số tôn giáo, từ đó đối sánh với những giá trị cơ bản của Đề cương, xét xem những giá trị đó cần phát huy như thế nào trong sự phát triển văn hóa bền vững ở Việt Nam hiện nay.
1. Giá trị đạo đức của một số tôn giáo và đối chiếu với “Đề cương về văn hóa Việt Nam”

1.1. Giá trị đạo đức của tôn giáo

Trong các giá trị của tôn giáo, giá trị luân lý và đạo đức có thể xem là giá trị có ảnh hưởng sát thực nhất trong việc xây dựng định hình các giá trị văn hóa truyền thống, bởi giá trị luân lý và đạo đức là giá trị mang tính tập thể trong định hướng các nguyên lý sống, chuẩn mực sống và phong cách sống (lối sống). Giá trị mang tính tập thể là một trong ba nguyên tắc cơ bản khi xây dựng Đề cương đó là “dân tộc hóa”, “khoa học hóa” và “đại chúng hóa”.
Trong xã hội hiện nay, Phật giáo có ảnh hưởng to lớn đến đạo đức, lối sống con người Việt Nam. Đạo đức Phật giáo khuyên nhủ con người hãy thực hiện đức thiện, tu dưỡng đạo đức với mục đích khuyên nhủ chúng sinh chuyển mê lâm thành già c nǵ ộ, chuyển ác thành thiện, chuyển đau khổ thành an lạc mà Đức Phật đã vạch ra con đường tu tập cho chúng sinh. Giá trị luân lý và đạo đức của Phật giáo được thể hiện trong các kinh sách như Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Đức Phật khuyên con người hãy làm mười điều thiện và mười điều thiện này nằm trong ba nghiệp (thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp), đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị đối với đạo đức cá nhân con người cũng như trong mối quan hệ con người với con người và con người với xã hội. Một nguyên tắc để xây dựng nếp sống hòa hợp giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội có thể tìm thấy trong tư tưởng “Lục hòa”. Với sáu nguyên tắc trong bất kỳ môi trường nào, xã hội nào, gia đình nào cũng cần cân bằng và giữ gìn, ví dụ: Với gia đình, anh em bất hòa, thì cốt nhục chia ly và vợ chồng bất hòa, gia đình không yên, con cái khổ cực. Làng xóm bất hòa, sẽ sinh ra cãi vã, kiện cáo, cuộc sống không thuận. Quốc gia bất hòa sẽ tạo cơ hội cho giặc ngoại xâm lấn chiếm, làm cho dân chúng lầm than, khổ sở. Nhân loại bất hòa, chiến tranh xảy ra, dân chúng điêu đứng, suy tàn. Như vậy, có thể thấy đạo đức Phật giáo như la mồ t cạ ch xá c lấ p ṃ ối liên hệ giữa đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng đồng. Bên cạnh đó, trong kinh Lễ sáu phương, Phật giáo đã dùng sáu phương trời là: Đông, Nam, Tây, Bắc, Hạ phương, Thượng phương, để chỉ rõ sáu quan hệ và bổn phận của con người trong ứng xử ở gia đình và ngoài xã hội, cần có sự gương mẫu, kính trên, nhường dưới, bằng hữu hài hòa, trong ấm, ngoài êm, từ đó xây dựng nền tảng cho một xã hội yên bình, an vui. Đây là hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức mà Phật giáo đã đề ra không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo, mà còn thể hiện các mối quan hệ thuần túy về đạo đức con người trần thế và “những chuẩn mực đạo đức này vẫn luôn có ý nghĩa trong đời sống đạo đức của mọi xã hội, trong đó có xã hội của chúng ta ngày nay”1. Những tư tưởng về đạo đức con người theo quan niệm Phật giáo cho tới hiện nay vẫn cần gìn giữ và phát huy. Các “giá trị của Phật giáo có thể được hiểu là những nguyên tắc nắm bắt bản chất của thế giới tự nhiên và con người mà tín đồ, cộng đồng Phật giáo và xã hội thế tục tôn trọng, thừa nhận, tin tưởng và gìn giữ một cách bền lâu nhất; chúng phản ánh tính mục đích và tính ưu tiên trong mỗi hành động và cách ứng xử của tín đồ Phật giáo. Các giá trị của Phật giáo còn có khả năng ảnh hưởng đến cộng đồng và xã hội nói chung”2.
Công giáo và đạo Tin Lành có quan niệm rất chặt chẽ về giá trị luân lý và đạo đức. Với Công giáo, “luân lý là hệ thống những quy tắc làm chuẩn mực,

_____________

  1. Nguyễn Hữu Vui: “Tôn giáo và Đạo đức”, in trong Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb. Hà Nội, 1994, tr.155.
  2. Hoàng Văn Chung (Chủ biên): Giá trị và chức năng cơ bản của Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2019, tr.37.
giúp con người - cá nhân hay xã hội - sống đạo làm người...”1. Theo đó, trong quan niệm của Công giáo, luân lý gồm những quy tắc và cách sống, những quy tắc đó giúp con người biết tự điều chỉnh, cân nhắc thái độ, hành vi để sống đúng với nhân phẩm của mình. Ngoài ra, nỗ lực sống luân lý của người Kitô hữu không phải là nỗ lực ở tầm mức con người, nhắm tới những kết quả trong thế giới con người, mà còn vươn tới tầm mức Thiên Chúa, nhắm tới những kết quả trong thế giới Thiên Chúa. Đi kèm với luân lý là đạo đức mà Giáo hội Công giáo cũng rất coi trọng. Đạo đức học là những nghiên cứu về cách ứng xử của con người theo lý trí tự nhiên. Đạo đức học liên quan và là nền tảng cho nhiều phạm vi khác nhau, như: giáo dục, y tế, xã hội, kinh tế, chính trị, sinh học, môi trường, v.v2.. Như vậy, giá trị luân lý và đạo đức của Công giáo có những điểm trùng nhau, nó đều là những chuẩn mực để đưa ra những phán quyết hành động của con người dựa trên các tiêu chí tốt - xấu, thiện - ác... Tuy nhiên, cũng có điểm khác biệt giữa hai vấn đề này. Luân lý được thể hiện chiều sâu của tâm hồn con người thông qua các chuẩn mực được quy định bởi niềm tin vào Thiên Chúa. Đạo đức được thể hiện ở những hành vi, ứng xử bởi ý chí của bản thân mà đôi khi không liên quan đến cái thiêng của họ đang tin nhận. Tuy nhiên, để đạt được những giá trị trên, Công giáo còn định ra các giá trị mang tính chuẩn mực cho đời sống và hành động của các tín đồ. Với người Công giáo, mười điều răn là “giao ước được Thiên Chúa ký kết với dân Ngài”, trong mười điều răn này chỉ có hai điều căn cốt nhất được coi như giá trị luân lý và đạo đức là: Mến Chúa - yêu người. Đó là việc ứng xử giữa con người với đấng Thiêng và con người với con người3. Với đạo Tin Lành, giá trị đạo đức được thể hiện trong Kinh Thánh với ba luận điểm: Chúa Trời, kinh thánh và ân điển, tác giả Mã Phúc Thanh Tươi đã nhấn mạnh: “Đạo đức Tin Lành nhấn mạnh đến nguồn gốc đạo đức xuất phát từ bản thể của đức Chúa Trời, bản chất là phản ánh ý chí của đấng tối cao trong sự tạo dựng và cứu rỗi nhân loại. Yếu tố cơ bản của đạo đức được đức Chúa Trời cung cấp qua kinh thánh, qua thế giới tự nhiên và lịch sử con người. Tất cả mọi người đều ý thức

_____________

1, 2. Hội đồng Giám mục Việt Nam: Từ điển Công giáo 500 mục từ, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011, tr.216, 103.
3. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: “Phát huy giá trị của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay”, Tlđd, tr.96-99.
sự thúc bách từ trong lòng về điều thiện mà mình phải làm và nhận thức mình là “nhân vô thập toàn” không thể làm trọn các chuẩn mực”1. Đạo đức Tin Lành không những nhắc nhở con người có ý thức về trách nhiệm của mình với Chúa Trời, với tha nhân, với bản thân và với môi sinh vũ trụ, mà còn phải chú tâm đến những thể thức hành động, phải nêu ra được những quy phạm, tiêu chuẩn hành động để con người có thể tổ chức và hình thành cuộc sống của mình2. Xét cho cùng, đạo đức luân lý của đạo Tin Lành là nền đạo đức luân lý được xây dựng trên nền tảng kinh Thánh, là hệ thống các quy tắc dựa trên Thánh kinh thần học nhằm điều chỉnh hành vi, hành động của tín đồ, hướng họ có ý thức và trách nhiệm cho bản thân và cộng đồng. Dựa trên ba nguyên lý cơ bản của cải cách chỉ có “Chúa Trời, kinh thánh và ân điển”, đạo đức Tin Lành quy định lối sống của một tín đồ trong mối liên hệ trách nhiệm với đấng tối cao, đối xử nhân ái với đồng loại và bảo vệ môi trường tự nhiên3.
Các tôn giáo nội sinh4 cũng có những quan niệm về giá trị luân lý và đạo đức. Từ Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến Phật giáo Hòa Hảo hay Phật giáo Hiếu Nghĩa tà Lơn đều đưa ra con đường giải thoát đó là học Phật, tu nhân, vì đây là con đường phù hợp với tín đồ (cư sĩ tại gia). Phải nhận thức được việc tu thân trước rồi mới học Phật, theo đó, muốn tu nhân thì phải tu thân. Đây là quan điểm của các bậc thánh hiền từ xưa theo quan niệm của Nho giáo. Tu thân là bước đầu tiên của con người để đi đến quả vị của Tiên, Thánh, Bồ tát và chư Phật. Sách Đại học Thánh kinh có viết5: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn. Kì bổn loạn nhi mạt trị giả phủ hĩ, kì sở hậu giả bác, nhi kì sở bác giả hậu, vị chi hữu dã! thử vị tri bổn, thử vị tri chi chí dã”. Nghĩa là:Từ bậc Tử cho đến thứ dân đều phải lấy sự hàm dưỡng và rèn luyện bản thân (tu thân) làm gốc. Cái gốc của nó lộn xộn,

_____________

  1. Mã Phúc Thanh Tươi: “Vài nét tương đồng trong đạo đức Tin Lành và đạo đức truyền thống”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12, 2011, tr.53-59.
  2. Lưu Hồng Khanh: “Đạo đức học Cơ Đốc/Kitô”, Thần học viện Tin Lành Việt Nam, Frankfurt, 2003, tr.10-17.
  3. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Phát huy giá trị của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay, Tlđd, tr.125.
  4. Đó là những tôn giáo xuất hiện và ra đời tại Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
  5. http://www.cohanvan.com/nho-dhao/Tu-thu/dhai-hoc/thanh-kinh, truy cập ngày 14/4/2021.
rối ren (loạn) thì không thể nào lo liệu, sắp xếp (trị) được ở cái ngọn vậy. Cái chỗ quan trọng thì coi nhẹ mà cái chỗ không quan trọng thì lại xem trọng thì chưa từng có vậy. Thế mới gọi là biết cái gốc, thế mới gọi là đạt đến sự hiểu biết vậy”. Đức Bổn sư đã nói: “Muốn tu theo đạo Thánh Hiền. Đặng làm quân tử phải chuyên trau mình”, nghĩa là khi đạt được đến bậc quân tử thì mới mong gần Thánh Hiền, gần với Phật, tiên, đó là bổn phận tu nhân trong xã hội thời đó. Tu nhân cũng chính là thực hành Tứ ân - Hiếu nghĩa. Thực hành Tứ ân tức là đã hoàn thành xong sứ mạng Hiếu nghĩa1. Gọi là Tứ ân, tức phải phải trả bốn cái ơn lớn: Ân Tổ quốc; Ân cha mẹ sinh dưỡng; Ân Tam bảo chỉ cho ta con đường giải thoát; Ân đồng bào. Như vậy, có thể thấy giá trị đạo đức và lối sống mà các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ đề cao cũng là những giá trị đạo đức và lối sống tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc, trong đó, phẩm chất hàng đầu là ân đền ơn Tổ quốc, đồng bào, rồi mới đến đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, hiếu kính cha mẹ. Việc coi trọng lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân được các tôn giáo này coi trọng và trở thành giá trị cốt lõi trong phương thức tu hành, phương châm hành đạo của các tôn giáo với mong muốn đưa con người đến với con đường giải thoát một cách dung dị, đời thường. Với đạo Cao Đài hay Minh sư đạo, Minh lý đạo cũng có tư tưởng gần nhau đó là theo tư tưởng tam giáo và con đường giải thoát là tu nhân với tinh thần từ bi, nhân nghĩa, công bằng.
Tín ngưỡng/tín ngưỡng truyền thống/tín ngưỡng dân gian có những quan niệm về giá trị luân lý và đạo đức được thể hiện qua việc thờ phụng tổ tiên theo hai nghĩa: tổ tiên theo nghĩa rộng là những người có công với đất nước, với làng xã... và nghĩa hẹp đó là tổ tiên của dòng họ, của gia đình. Việc thờ phụng tế lễ trao truyền qua các thế hệ người Việt từ xưa cho đến nay thực tế cũng chính là sự giáo dục con người với cách ứng xử về tình người, về lòng biết ơn với tổ tiên. Tư duy “uống nước nhớ nguồn” vì thế đã trở thành lẽ sống, thành thước đo đạo lý làm người, là giá trị văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam. Đây là cách ứng xử mang quy phạm đạo đức trong tôn giáo truyền thống ở Việt Nam (tất cả nhu cầu của cuộc sống như: làm ăn, dựng vợ

_____________

1. Xem Nguyễn Văn Sâm: Tín ngưỡng Việt Nam cận đại và hiện đại, Đại học văn khoa Sài Gòn, 1975, tr.54-57.
gả chồng hay cầu con, cầu của, cầu mạnh khỏe... đều được bày tỏ trước hương án tổ tiên)1.

1.2. Giá trị đạo đức tôn giáo qua đối chiếu với “Đề cương về văn hóa Việt Nam”

Cách đây 80 năm, Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) được ra đời sở dĩ có sức lan tỏa mạnh mẽ và giá trị bền vững bởi các nội dung và cấu trúc đã được tạo dựng và hoàn chỉnh với một phương pháp tiếp cận thực sự khoa học. Với ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học và đại chúng, các giá trị của Đề cương có sức sống từ trong lịch sử đến nay. Ngay trong Đề cương đã thể hiện tính đa dạng trong sự thống nhất. Trước kia, ba nguyên tắc trong Đề cương thể hiện tinh thần cuộc vận động xây dựng nền văn hóa Việt Nam: “dân tộc hóa” (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), “đại chúng hóa” (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng) “khoa học hóa” (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Ngày nay, với ba nguyên tắc thống nhất biện chứng không thể tách rời, lại được thể hiện phong phú và đa dạng hơn trong xã hội hiện đại. Theo tác giả Từ Thị Loan khi phân tích ba nguyên tắc trong thời đại mới cần có cái nhìn mở rộng hơn, theo đó, tính dân tộc được hiểu rộng hơn về việc gìn giữ, phát huy những giá trị cổ truyền, làm cho văn hóa phát triển độc lập và nhất là trong giai đoạn hội nhập là để chống lại sự vay mượn, lai căng và xói mòn bản sắc văn hóa, đồng thời, trong quá trình tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại sẽ biến các giá trị đó thành những giá trị văn hóa của mình theo bản sắc của mình với “quốc hồn, quốc túy”2.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản

_____________

  1. Viện Nghiên cứu Tôn giáo: “Phát huy giá trị của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay”, Tlđd, tr.131-133.
  2. Xem Từ Thị Loan: “Đề cương Văn hóa Việt Nam, 60 năm nhìn lại, đăng trong: Bộ Văn hóa Thông tin: 60 năm Đề cương văn hóa Việt Nam (1943-2003), Kỷ yếu hội thảo, Nxb.
Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2004, tr.261-263.
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”1.
Có thể thấy, từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cho đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, các nghị quyết đều kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm của Đề cương       về tính chất, nguyên tắc vận động của nền văn hóa mới, nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đặc biệt, tại Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI (2014) đã xác định mục tiêu chung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2, trong đó, mục tiêu

_____________

  1. Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr.7.
  2. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014xay-dung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx, truy cập ngày 8/2/2023.
cụ thể đầu tiên là: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”1.
Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tại Đại hội XIII, Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”2. Như vậy, trong thời đại mới, những nhận thức của Đảng về phát triển chuẩn mực văn hóa là tập trung xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người, đây là những vấn đề trực tiếp của giá trị đạo đức mà mỗi con người Việt Nam cần gìn giữ và phát huy truyền thống từ xưa. Đặc biệt, với những người có tôn giáo thì vấn đề gìn giữ, phát huy giá trị đạo đức của tôn giáo mình theo cuộc sống rất hữu hiệu, bởi tôn giáo nào cũng hướng con người đến chân - thiện - mỹ và chính niềm tin tôn giáo, niềm tin vào những chuẩn mực giá trị đạo đức của tôn giáo đã làm thay đổi bản tính con người, làm họ tự điều chỉnh lại những hành vi của họ trong mọi mối quan hệ, ứng xử với cộng đồng xung quanh.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, là văn bản đầu tiên của Đảng thể hiện tính đột phá trong cách nhìn nhận vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, bởi Nghị quyết khẳng định: Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Như vậy, Đảng ta đã khẳng định những giá trị đạo đức tôn giáo có thể phát huy trong xây dựng đất nước thời kỳ đổi

_____________

  1. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Nghi-quyet-33-NQ-TW-2014-xaydung-phat-trien-van-hoa-con-nguoi-Viet-Nam-237544.aspx, truy cập ngày 8/2/2023.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.143.
mới. Sau này, hàng loạt các chỉ thị, nghị quyết hay cả Cương lĩnh phát triển đất nước từ năm 1991 đến nay đều cụ thể hóa các quan điểm của Nghị quyết số 24. Nghị quyết số 24 có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn cao và đây được coi là bước ngoặt, “bước đột phá” trong quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo1. Hiện nay, văn bản pháp luật cao nhất đó là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng đã tạo hành lang pháp lý để mỗi một tôn giáo đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam sẽ càng phát huy những giá trị đạo đức của tôn giáo mình, góp phần vào công cuộc xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam đáp ứng với những tiêu chí của quốc tế nhưng vẫn gìn giữ được bản sắc Việt Nam. Đặc biệt, trên tinh thần nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam, kế thừa và phát triển những nguyên tắc đó trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay được thể hiện trong Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, đã chỉ rõ xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Theo tác giả Đào Duy Quát, khi nghiên cứu văn hóa cần tiếp cận từ hệ giá trị, bởi khi coi văn hóa là trình độ phát triển các quan hệ nhân tính của xã hội, của mỗi con người, nó sẽ được cộng đồng khẳng định thành một hệ giá trị mà chuẩn mực cơ bản là: chân, thiện, mỹ. Bởi cốt lõi của hệ giá trị là hệ tư tưởng vì nó kết dính, định hướng các chuẩn mực giá trị và các cộng đồng văn hóa. Đặc biệt, tính lan tỏa của văn hóa được biểu hiện trong các giá trị cơ bản, các động cơ, niềm tin, ứng xử của con người trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực cuộc sống. Theo cách tiếp cận này thì không những coi văn hóa là mục tiêu, là động lực phát triển mà còn là hệ điều chỉnh cho sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và quốc gia2. Rõ ràng, văn hóa đã trở thành nguồn lực nội sinh, là động lực phát triển bền vững cho sự phát triển xã hội Việt Nam.
Cũng theo tác giả Từ Thị Loan khi nghiên cứu về giá trị Đề cương văn hóa trong tình hình mới đã đưa ra sự kế thừa, chọn lọc và phát triển của các

_____________

  1. Nguyễn Hồng Dương: Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.182.
  2. Đào Duy Quát: “Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) - Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Đảng ta”, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, tr.3-6. Bài viết đăng trên trang BTC.120606.PDF (cantholib.org.vn), ngày truy cập 6/2/2023.
giá trị văn hóa, trong đó giá trị nhân văn thể hiện bản chất của giá trị đạo đức tôn giáo: “... giá trị nhân văn thể hiện ở nền văn hóa yêu thương con người, nhân ái, bao dung, lấy con người làm gốc. Nhân văn có nội hàm rộng hơn bác ái của phương Tây, còn có ý nghĩa tôn trọng nhân phẩm, đề cao nhân quyền, tôn trọng quyền con người. Văn hóa Việt Nam từ xưa đến nay là nền văn hóa trọng tình cảm, thương yêu con người, đề cao tình yêu thương đồng loại... Tuy nhiên, hiện nay giá trị này đang bị đe dọa trước lối sống vị kỷ, vô cảm trong cơ chế kinh tế thị trường. Vì những mục tiêu vụ lợi người ta có thể xâm hại, chà đạp, vùi dập nhân phẩm của nhau. Do vậy, rất cần khôi phục và củng cố sự tử tế, lòng nhân ái, nghĩa tình vốn sẵn có trong văn hóa Việt Nam. Nhân văn cũng là một giá trị mà Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề ra đối với văn hóa Việt Nam”1. Như vậy, giá trị đạo đức của tôn giáo được soi rọi trong giá trị nhân văn của Đề cương, thể hiện ý nghĩa rộng hơn giá trị đạo đức của tôn giáo, tuy nhiên, giá trị đạo đức của tôn giáo có sự ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến những người theo tôn giáo trong ứng xử, trong đời sống văn hóa của mỗi người.
2. Giá trị đạo đức của tôn giáo trong gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống Việt Nam hiện nay
Tổng Bí thư Trường Chinh từng đề cập: văn hóa có tính chất khoa học. Nó tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng phản đối mê tín..., như vậy, Tổng Bí thư Trường Chinh đã coi tôn giáo là một bộ phận của văn hóa. Từ những nhận thức đổi mới, sáng tạo, cho đến những nghị quyết tỏ rõ quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ngày một sáng rõ hơn và khẳng định tôn giáo là một thực thể văn hóa, một loại văn hóa vô hình mà cần thiết cho con người và tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, nhiều giá trị của tôn giáo phù hợp với giá trị xây dựng đất nước2.

_____________

  1. Từ Thị Loan: “Xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển”, https://tuyengiao.phuyen.gov.vn/van-hoa-van-nghe/xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-vietnam-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-4427.html, ngày 2/11/2022, truy cập ngày 8/2/2023.
  2. Xem Đặng Nghiêm Vạn: “Nhân dịp 60 năm đề cương về văn hóa Việt Nam định hướng về công tác tôn giáo”, in trong Bộ Văn hóa Thông tin: Đề cương văn hóa Việt Nam 1943, những giá trị tư tưởng - văn hóa, Nxb. Viện văn hóa Thông tin và Văn phòng bộ, 2003, tr.306-308.
Tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia... Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác”1. Như vậy, với quan điểm và tầm chiến lược phát triển văn hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, chú trọng việc xây dựng văn hóa mới, con người mới, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững theo phương châm mà Đảng đã đề ra là “hòa nhập chứ không hòa tan”.
Trước hết, Việt Nam là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo, nên vấn đề đoàn kết tôn giáo lại càng cần phải thực hiện. Nói đến đoàn kết tôn giáo, chúng ta không thể không nhắc đến tư tưởng về đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi tư tưởng về đoàn kết tôn giáo đó luôn là kim chỉ nam trong hành động của Đảng và Nhà nước ta. Cơ sở nòng cốt của tư tưởng đoàn kết tôn giáo đó là tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Muốn có tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải đoàn kết tôn giáo, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đoàn kết tôn giáo là bộ phận quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc, góp phần phát huy sức mạnh toàn dân trong công cuộc kháng chiến, giành độc lập cho nước nhà. Trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, điều thứ 8, đề cập: Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Thế là rõ ràng, đúng dân chủ. Người Việt Nam bất kỳ lương hay giáo, theo đạo Thiên Chúa hay đạo Phật, Cao Đài hay Hòa Hảo, mọi người đều có thể tán thành và ủng hộ chính sách ấy2. Do đó, đoàn kết tôn giáo trước hết là phải đoàn kết giữa những người có đạo và không đạo; tiếp đó là phải đoàn kết giữa những người có đạo khác nhau và đoàn kết những người trong cùng một đạo, dù bất luận thế nào cũng không được phân biệt đối xử không công bằng, Người đã chỉ rõ: Công giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo đều phải nên nỗ lực đấu tranh cho nền độc lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng ta là phải giữ vững

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.164.
  2. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.239.
nền độc lập. Trong Công giáo có câu “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu “Vạn chúng nhất linh” nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh1.
Trên nền tảng tư tưởng đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy tinh thần đó trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Với Phật giáo trên nguyên tắc xây dựng nếp sống hòa hợp với tư tưởng “Lục hòa” hay “Lễ sáu phương”, đều là hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức mà Phật giáo đã đề ra không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo, mà còn thể hiện các mối quan hệ thuần túy về đạo đức con người trần thế, cần có sự gương mẫu, kính trên, nhường dưới, bằng hữu hài hòa, trong ấm, ngoài êm, từ đó xây dựng nền tảng cho một xã hội yên bình, an vui. Với phương châm hành động “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”, Phật giáo đã thực hiện được tinh thần đoàn kết từ chức sắc, tín đồ đến người dân cùng chung tay góp sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với Công giáo, mười điều răn là “giao ước được Thiên Chúa ký kết với dân Ngài”, mười điều răn này tóm lại chỉ có hai điều này mà căn cốt nhất được coi như giá trị luân lý và đạo đức là: “Mến chúa yêu người” cũng đã đóng góp nhân lực, vật lực cho sự nghiệp Cách mạng với phương châm “Kính Chúa, yêu nước” gắn với “Phụng sự Thiên Chúa, phụng sự Tổ quốc”. Nhất là sau năm 1945, đã xuất hiện một số tổ chức của giới Công giáo như: Việt Nam Công giáo cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh; Liên đoàn Công giáo Việt Nam; Việt Nam Công giáo Cứu quốc, Ủy ban Liên lạc những người Công giáo Liên khu III (1950); Liên đoàn Công giáo Nam Bộ, Hội Công giáo Kháng chiến Nam Bộ,... những tổ chức này là tiền thân của Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam hiện nay2. Với các tôn giáo nội sinh ra đời trong bối cảnh đất nước còn loạn lạc, vùng Nam Bộ trong thời kỳ đầu còn nhiều thiếu thốn, chủ yếu mang tính tự phát, do đó, ở vùng Nam Bộ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều sĩ phu yêu nước giương cao ngọn cờ đấu tranh, đòi độc lập, tự do, họ đã chiêu mộ người dân, lập ấp, chữa

_____________

  1. Xem  Huy Thông (sưu tầm): Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.36.
  2. Chu Văn Tuấn: “Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền về truyền thống lịch sử, tinh thần yêu nước, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam; về những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội”, Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ cấp bộ, 2021, tr.214-217.
bệnh cho dân nghèo, hỗ trợ nhau trong cuộc sống cả vật chất lẫn tinh thần. Trên tinh thần Tứ ân (gốc của Phật giáo) cùng với giáo lý của Nho giáo (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín hay trung, hiếu, tiết, nghĩa) đã giảng dạy đạo lý làm người cho dân thấu trên nền giáo lý tôn giáo. Sau này trên nền tảng văn hóa Nam Bộ với sự dung hòa đó, các tôn giáo: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ an Hiếu nghĩa, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo... đã lần lượt ra đời được gọi là tôn giáo nội sinh, “dòng tôn giáo này, tạo thành chất keo dính cho sự tổng hợp những nguồn tư tưởng khác nhau, chính là đạo lý làm người truyền thống của người Việt... gọi là dòng tôn giáo đạo lý Nam Bộ”1.
Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tài năng, trí tuệ, nhân phẩm con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”2. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức lối sống của mỗi con người được xây dựng trên cơ sở tiếp nhận kiến thức từ gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội, trong đó, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và suốt cuộc đời, định hình nhân cách của mỗi con người. Gia đình chính là môi trường văn hóa đầu tiên mà ở đó mỗi cá nhân từ khi chào đời và suốt quá trình trưởng thành liên tục được tiếp xúc với các chuẩn mực đạo đức từ cha mẹ, ông bà và những người thân. Chính lối sống đề cao trách nhiệm, nghĩa tình, đức hy sinh, tính bản thiện, sự quan tâm tới mọi người và nhân cách cao thượng của ông bà, mẹ cha có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ. Bổn phận của con cái là tôn kính cha mẹ (lòng hiếu thảo) dựa trên sự biết ơn đối với những người sinh thành, nuôi dưỡng mình nên người. Lòng hiếu thảo được

_____________

  1. Đặng Thế Đại: Tín ngưỡng nội sinh Việt Nam qua cái nhìn Văn hóa học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018, tr.134.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.330.
bày tỏ qua sự vâng lời chân thành, phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy, phải có trách nhiệm đối với cha mẹ... Lòng hiếu thảo còn thể hiện anh chị em trong gia đình ăn ở chan hòa, khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau.
Cho dù là gia đình truyền thống hay hiện đại, gia đình theo tôn giáo hay không theo tôn giáo, việc xây dựng, gìn giữ giá trị truyền thống cơ bản vẫn là quan trọng, đó là đạo Hiếu (uống nước nhớ nguồn) hay thờ cúng tổ tiên là giá trị văn hóa truyền thống căn bản trong gia đình Việt Nam. Việc tôn kính, tưởng nhớ tổ tiên, dòng tộc, biết ơn những người có công - một đạo lý văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, hiện nay cũng được các tôn giáo giáo dục, duy trì và phát huy. Tác giả Minh Ngọc cho biết: Tại các gia đình đô thị hiện nay, việc thờ cúng tổ tiên cũng có nhiều biến đổi. Yếu tố dòng trưởng, con trai trưởng vẫn được đề cao nhưng không còn là chủ thể duy nhất của thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên được thực hiện một cách công bằng đối với các thành viên nam trong gia đình. Người phụ nữ đã thể hiện được vai trò của mình trong thờ cúng tổ tiên, tuy nhiên, về cơ bản phụ nữ chưa trở thành chủ thể của thờ cúng tổ tiên1. Với Công giáo, trong Mười điều răn, giới răn thứ tư là thảo kính cha mẹ, đây là mối dây liên kết gia đình giữa ông bà, cha mẹ và con cháu. Người mẹ trong gia đình thường là chủ động tỏ lòng biết ơn với các bậc sinh thành còn sống hay đã khuất, bằng quà cáp, thăm viếng hay giỗ kị. Vì Cha mẹ là đại diện Thiên Chúa. Các ngài sinh ra con cái, dẫn nhập con cháu vào liên kết gia đình và cộng đoàn. Với Phật giáo, lễ Vu lan báo hiếu ngày nay không còn đơn thuần mang ý nghĩa tôn giáo mà trở thành một “lễ hội của nhân dân Việt Nam” (lễ rằm tháng Bảy - xá tội vong nhân) trong việc hiếu kính cha mẹ, thờ phụng tổ tiên ông bà và cầu siêu cho các vong linh. Theo nhà Phật, việc lễ bái, niệm Phật, cúng dường, bố thí, làm phúc... đều là những việc cần làm để tạo ra công đức để chuyển nghiệp xấu thành nghiệp thiện cho bản thân và gia đình mà trong Kinh Địa Tạng chép: “Nếu một người đã chết mà trên thế gian đã có người làm phước, bố thí, cúng dường thì người chết sẽ được

_____________

1. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: “Thực trạng về hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo trong gia đình và những tác động của hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo đến gia đình Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học thuộc đề tài Hoạt động tín ngưỡng - tôn giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay, Quảng Nam, 2017, tr.6-14.
hưởng một phần bẩy (bảy)”1. Việc giáo dục đạo đức trong gia đình là quan trọng nhất đối với trẻ nhỏ, nhất là việc dạy bảo con cháu thực hiện các nghi lễ tôn giáo thường xuyên mới tạo được nếp sống, từ đó tạo giá trị cơ bản về đạo đức trong văn hóa gia đình, xã hội. Số liệu điều tra cho thấy sự lựa chọn giáo dục về niềm tin đạo đức ở gia đình không tôn giáo là 82,2% và gia đình tôn giáo là 87,7%, cao hơn so với các lựa chọn khác như dạy cách giải quyết một cách ôn hòa hay đấng Thiêng (là đối tượng Thiêng mà các tôn giáo tôn thờ như Đức Phật, Chúa Giêsu hay Thần, Thánh, Ông Trời...)2 sẽ báo trước... Điều đó sẽ cho thấy việc giáo dục niềm tin đạo đức sẽ dần hình thành các giá trị đạo đức cơ bản của mỗi thành viên trong gia đình. Khảo sát của Viện Nghiên cứu Tôn giáo cho thấy các gia đình rất chú trọng giáo dục con cháu về tôn giáo của gia đình cho chỉ số với 63,5% là gia đình không tôn giáo; với 86,5% là gia đình Phật giáo; với 95,8% là gia đình Công giáo3.
Giá trị đạo đức tôn giáo còn thể hiện thông qua các hoạt động từ thiện xã hội, lĩnh vực y tế, giáo dục cũng là một cách thể hiện đạo đức con người tôn giáo, phát huy tinh thần sống “tốt đời, đẹp đạo” và truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc Việt Nam, những năm qua, các hoạt động từ thiện nhân đạo ngày càng được các tôn giáo chú trọng và dần trở thành một phong trào mang tính xã hội rộng lớn. Hoạt động từ thiện nhân đạo của các tôn giáo đã mang lại hiệu quả thiết thực góp phần chăm lo các hộ nghèo, những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, qua đó góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Các cơ sở chữa bệnh của các tôn giáo đã và đang góp phần làm dịu đi những nỗi đau cho người bệnh. Đặc biệt, với Công giáo là các nữ tu luôn âm thầm phục vụ nơi bệnh viện - đã góp phần đỡ nâng người bệnh phần hồn lẫn phần xác, để họ cảm thấy cuộc sống vẫn được sẻ chia khi bản thân ốm đau bệnh tật. Với Phật giáo, hoạt động: “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội” trên cơ sở những triết lý cơ bản trong đó Tứ vô lượng tâm và Hạnh bố thí đã luôn “hướng về đời

_____________

1. Xem Chu Văn Tuấn: “Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền về truyền thống lịch sử, tinh thần yêu nước, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam; về những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội”, Sđd, tr.232.
2, 3. Xem Viện Nghiên cứu Tôn giáo: “Báo cáo kết quả xử lý dữ liệu khảo sát đề tài Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay”, Đề tài độc lập cấp Bộ, TS. Nguyễn Quốc Tuấn (chủ nhiệm), Lưu hành nội bộ, 2018.
sống xã hội, làm cho ý nghĩa đích thực của đạo Phật được thể hiện trong những công trình xây dựng quốc độ, mang lại hạnh phúc trong đời sống con người về vật chất lẫn tinh thần...”1. Các tôn giáo nội sinh với phương châm “học PhậtTu thân”, tại gia cư sĩ đã thể hiện lòng nhân ái, tình yêu thương con người, yêu thiên nhiên, đã luôn đồng hành cùng dân tộc trọng mọi cuộc chiến với các vấn đề xã hội như nạn dịch Covid, thảm họa thiên tai, xóa đói giảm nghèo, bệnh tật ốm đau. Đặc biệt với Hòa Hảo là việc hỗ trợ xe cứu thương, với đạo Cao Đài là cứu trợ, chữa bệnh, hay Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam tiêu biểu là các phòng thuốc Nam cứu người... Với tinh thần từ bi, bác ái, cứu khổ của các tôn giáo đã thể hiện truyền thống văn hóa thương yêu, đùm bọc, đoàn kết, nhân ái của người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại.
Xét cho cùng, tôn giáo nào cũng đề cập đến đạo đức con người, đều hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, dù rằng theo quan niệm của các tôn giáo có sự khác nhau. Tôn giáo có vai trò trong việc giữ gìn, lưu truyền và phát huy các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống Việt Nam, bởi tôn giáo nào cũng đều khuyên răn con người hướng thiện, hướng đến cái tốt đẹp, hướng đến đạo lý làm người, có trách nhiệm với bản thân và gia đình, biết sống vì cộng đồng. Các hoạt động hướng đích xã hội, hoạt động từ thiện nhân đạo của các tổ chức tôn giáo góp phần an sinh xã hội, giúp cho xã hội ổn định hơn, phát triển hơn. Các tôn giáo ngày nay đã trở thành một nguồn lực xã hội không thể thiếu, thu hút được đông đảo người dân tham gia, tạo ra một không gian tâm linh, góp phần xây dựng bầu không khí đạo đức, chung tay cùng nhà nước tham gia vào các lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo, góp phần xoa dịu những nỗi đau về thể xác cũng như tinh thần.
*
*       *
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận rằng, giá trị đạo đức của tôn giáo đã xuất hiện trong các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị chuẩn mực thể hiện trong các phong tục, tập quán gia đình,

_____________

1. Xem Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam lần thứ nhất, ngày 4-7/11/1981, tr.37, 38.
trong đời sống, sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình thông qua các hoạt động cụ thể trong cuộc sống như ăn, mặc, đi lại, ứng xử, sinh đẻ, chăm sóc trẻ em, người già, thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo, cách thờ cúng tổ tiên, các vị thần linh... thể hiện rõ đạo lý làm người của một thành viên trong gia đình, dòng họ, làng xã, quốc gia với những ứng xử có tính nhân văn, tình người với môi trường xung quanh. Giáo lý, giáo luật và các hoạt động tôn giáo có tác động đến việc dạy dỗ, giáo dục con cái và tạo dựng giá trị văn hóa Việt Nam hiện nay được thể hiện rõ ràng qua việc giáo dục niềm tin đạo đức tôn giáo từ gia đình ra xã hội. Thông qua việc thực hành các hoạt động tôn giáo tại gia đình và tại cộng đồng cùng nhau, tạo sự gắn kết các thành viên trong gia đình, làm gương cho con cháu nói theo, nhất là con trẻ - thế hệ tương lai của đất nước. Những giá trị đạo đức của Phật giáo, Công giáo, đạo Tin Lành hay các tôn giáo nội sinh... đã thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam cho dù họ ở bất kỳ nơi nào, họ là tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào. Tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau được thể hiện qua công tác từ thiện, nhân đạo của từng cá nhân, gia đình, cộng đồng đã tạo ra tình đoàn kết, hữu nghị, gắn bó keo sơn trong cộng đồng xã hội. Tinh thần vì Đạo pháp, vì dân tộc của Phật giáo Việt Nam, tinh thần kính Chúa - yêu người, hay thực hành Tứ ân... cho đến nay luôn được các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ gìn giữ, phát huy và ứng dụng trong cuộc sống ngày hôm nay.
Trải qua các quá trình phát triển và đổi mới, quan điểm của Đảng đã có nhiều khởi sắc đối với công tác tôn giáo, để rồi có một văn bản pháp lý cao nhất đó là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời (2016), đã tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng hoạt động đúng pháp luật, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước. Đặc biệt, từ Chỉ thị số 18-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, đã bổ sung thuật ngữ “các nguồn lực của các tôn giáo” và đặt mục tiêu trong công tác tôn giáo là “đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc”, bên cạnh đó cần kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn giáo, chúng ta cần có sự đánh giá khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội (cả tích cực và tiêu cực) trong thời gian qua.
Trong xã hội hiện đại, dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức truyền thống cũng như văn hóa gia đình đã có những biến đổi. Việc giáo dục đạo đức truyền thống có phần bị coi nhẹ, ý thức trách nhiệm với cộng đồng ít được đề cao, lối sống buông thả đã dần ăn vào tâm thức giới trẻ, từ đó việc quan tâm, chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình đã giảm dần dẫn đến tính cố kết trong gia đình, dòng họ lỏng lẻo. Do vậy, việc phát huy giá trị đạo đức của tôn giáo trong xây dựng, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo tinh thần Đề cương về văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị. Phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc trong sự hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, đây là một trong những nhiệm vụ cần quyết tâm cao với những giải pháp đồng bộ, trách nhiệm của các cấp, ngành liên quan, nhất là công tác tôn giáo, do đó, cần tuyên truyền sâu, rộng, vận động trong toàn xã hội từ Trung ương đến cơ sở, để các giá trị đạo đức tôn giáo cũng như giá trị văn hóa truyền thống được lan tỏa trên, mọi vùng miền của Tổ quốc, góp phần phát huy, phát triển văn hóa tôn giáo phù hợp với sự phát triển xã hội hiện đại.
 
VỀ NGUYÊN TẮC ĐẢNG LÃNH ĐẠO VĂN HÓA
TRONG “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
ThS. MAI THỊ SOA)
Đ
 
ảng lãnh đạo văn hóa, văn nghệ là vấn đề mang tính tất yếu khách quan nhằm bảo đảm môi trường thật sự tự do, dân chủ, lành mạnh trong sáng tạo, thực hành và thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển có không ít quan điểm sai lầm, phiến diện đòi phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực đặc biệt quan trọng này.
Ngay từ năm 1943, trong Đề cương về văn hóa Việt Nam - Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa, Đảng ta đã đề ra nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện nền văn hóa dân tộc. Đến nay nguyên tắc này vẫn vẹn nguyên giá trị, là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Vấn đề Đảng lãnh đạo văn hóa qua sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam
Năm 1943, giữa muôn trùng khó khăn, thử thách, Đảng đã đề ra nhiều quyết sách quan trọng nhằm huy động mọi lực lượng, tầng lớp, mọi lĩnh vực, ngành nghề cùng dốc sức mình, tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh, giải phóng dân tộc, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, phát xít. Một trong những quyết sách quan trọng được Đảng ban hành là Đề cương về văn hóa Việt Nam. Bản đề cương do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông

_____________

) Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương, họp từ ngày 25 đến 28/2 tại Võng La, Đông Anh, Phúc Yên.
Nhận định về những chính sách thâm độc của thực dân và phát xít nhằm đầu độc, ru ngủ, triệt tiêu tinh thần yêu nước của người dân An Nam, Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định:
Về chính sách của Nhật: “Giặc Nhật ra sách báo, tổ chức những phong trào thông tin và du lịch khắp Đông Dương để tuyên truyền chủ nghĩa “Đại Á” và thuyết “Lập khu thịnh vượng chung”. Chúng đặt ra những câu sấm truyền và lợi dụng tôn giáo để mê hoặc và tổ chức đồng bào ta. Nhưng thực ra “khu thịnh vượng chung” là nơi đế quốc chủ nghĩa Nhật tự do ăn cướp và “nền trật tự mới” của phát xít Nhật là chế độ đánh giết và hiếp dâm.
Về chính sách của Pháp: Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương đánh giá: “Phát xít Pháp bóc lột, khủng bố, lừa phỉnh dân ta ngày một tệ. Lợi dụng khẩu hiệu “Pháp - Việt phục hưng”, giặc Pháp vơ vét một cách tàn nhẫn để cung đốn cho Nhật - Đức và bọn Pêtanh để phòng bị phải cuốn gói bước đi. Theo Đờcu (Decoux) tuyên bố, năm nay dân ta phải chịu thêm ít nhất 35 triệu bạc thuế nữa. Nhiều thuế mới đã đặt (như thuế nóc nhà ngói ở thôn quê, thuế sửa sang đường phố ở thành thị) hoặc đương dự định (như thuế trâu bò và cây có quả).
Càng bóc lột thẳng cánh, giặc Pháp càng khủng bố dã man, khủng bố để được tự do bóc lột và để giữ vững hậu phương cho Nhật. Chính sách khủng bố của Pháp hiện nay đặc biệt tàn nhẫn và qủy quyệt vì nó học thủ đoạn phá cách mạng của cả bọn quốc xã và bọn quân phiệt Nhật... Chính sách càn làng, đốt nhà, bắn người vô tội vạ lại diễn ra tại Lạng Sơn, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Gia Định... Bọn mật thám đi bắt bớ, tra tấn ngay tại chỗ. Khủng bố bao giờ cũng đi đôi với lừa phỉnh. Đáng chú ý nhất là giặc Pháp tuyên truyền chủ nghĩa phản quốc của Pêtanh, ra sức gây phong trào thanh niên và thể dục để lôi kéo thanh niên và phát xít hóa thanh niên, tuyển trong thanh niên những cán bộ xung phong phá cách mạng... Sửa đổi chương trình học, mở các bộ thông tin, tuyên truyền và báo chí để ra sách báo, tranh ảnh, tổ chức diễn thuyết, chiếu bóng làm mê hoặc quần chúng, mật thiết liên lạc với bọn cố đạo để tổ chức nhồi sọ, trinh thám nhân dân.
Văn hóa hết sức bị kỳm hãm, bất cứ cái có ý nghĩa tuyên truyền và giải trí công chúng đều bị kiểm duyệt. Các nhà văn cấp tiến bị hạ ngục hay đe dọa. Nhưng một nhóm văn sĩ liếm gót giày, lĩnh phụ cấp ra sách báo, bợ đỡ Nhật Pháp và ca ngợi tục lệ phong kiến giật lùi”1.
Dưới chính sách cai trị thâm độc, tàn bạo của thực dân, phát xít, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương nêu rõ: “Sống trong hoàn cành chính trị, kinh tế như trên, nhân dân Đông Dương cực khổ... Anh em thanh niên bị thất học, thất nghiệp nhiều và bị phát xít Nhật, Pháp cám dỗ làm những việc hại nước... Các giới trí thức văn hóa không có việc làm, bị thiếu thốn, hắt hủi, bó buộc và cám dỗ một cách đê tiện.
Tóm lại lúc này toàn thể dân tộc từ giàu đến nghèo cảm thấy phải sống trong một bầu không khí nghẹt thở, tinh thần dân tộc bị hắt hủi và đời sống ngày một nguy khốn thêm”2.
Trong bối cảnh, tình hình cấp bách đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đề ra nhiều chủ trương quan trọng, ra sức vận động các giai tầng, đoàn thể, các giới trong xã hội tích cực tham gia vào các mặt trận cứu quốc để khởi nghĩa giành chính quyền, tranh đấu cho nền độc lập, tự do. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ cần phải tiến hành cuộc vận động về văn hóa. Cụ thể là “Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế... phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức”3.
Với sự nhạy bén về chính trị, nhận định đúng tình hình đời sống văn hóa xã hội lúc bấy giờ, Đảng ta chủ trương vận động văn nghệ sĩ, trí thức cần ý thức sâu sắc về trách nhiệm, sứ mệnh cao cả của mình, phải tập hợp dưới ngọn cờ Đảng, đi theo lý tưởng cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời trong bối cảnh đặc biệt, cho thấy sự quan tâm và tầm nhìn của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa; đánh giá cao vai trò

_____________

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.282-283, 285-286, 300.
quan trọng của văn hóa trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Việc ban hành “Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa” còn góp phần khắc phục những bất cập, mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong nhận thức, hành động của một bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức; định hướng và mở ra con đường, tương lai phía trước mà đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức cần phải dấn thân, thực thi sứ mệnh lớn lao, cao cả: “Soi đường cho quốc dân đi”.
Ra đời trong bối cảnh Đảng phải lui về hoạt động bí mật; thực dân và phát xít khủng bố dã man, kiểm duyệt sách báo ngặt nghèo, Đề cương không có nhiều điều kiện để bàn thảo, đề cập đến tất cả các lĩnh vực cụ thể của văn hóa mà chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản, then chốt, liên quan mật thiết với nhiệm vụ chính trị, cách mạng, kháng chiến, đấu tranh giải phóng dân tộc. Đề cương có kết cấu năm phần: Cách đặt vấn đề; Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam; Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa mác xít Việt Nam.
Tại phần Đặt vấn đề, Đề cương lý giải và làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về nội hàm, phạm vi của văn hóa, đặc biệt là làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị.
Mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, cụ thể là mối quan hệ, tác động biện chứng giữa Đảng, những người cộng sản với văn hóa, với đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Đây là mối quan hệ biện chứng, khách quan, liên quan đến vai trò, sứ mệnh của Đảng trong lãnh đạo toàn diện các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa.
Lý giải mối quan hệ này từ quan điểm của triết học duy vật lịch sử, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã khẳng định: “Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”1. Văn hóa cũng như nhiều lĩnh vực khác đều nảy nở, bắt nguồn và chịu sự chi phối của hiện thực đời sống, cơ sở hạ tầng; đồng thời chịu tác động của thể chế, chế độ chính trị.

_____________

1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.4, tr.625.
Nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, cụ thể là vấn đề Đảng lãnh đạo văn hóa, Đề cương nhấn mạnh:
“Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động... Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Luận điểm này nhấn mạnh đến vai trò của Đảng, trách nhiệm của những người cộng sản đối với vấn đề văn hóa. Đảng yêu cầu những người cộng sản, người làm cách mạng phải ý thức sâu sắc về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa. Đó là một mặt trận quan trọng, liên quan mật thiết đến nền tảng tư tưởng, đến công tác tuyên truyền, vận động của Đảng. Đặc biệt những sáng tạo của người nghệ sĩ là những “vũ khí sắc bén” trong việc lên án, tố cáo tội ác chiến tranh; vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của thực dân, đế quốc; cổ vũ tinh thần, sức mạnh đoàn kết trong nhân dân.
Đảng lãnh đạo văn hóa và phải lãnh đạo thật tốt lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, tinh tế này nhằm khơi dậy và phát huy tinh thần sáng tạo, cống hiến của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Bằng tài năng, nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống, con người một cách sinh động, những tác phẩm văn hóa, văn nghệ sẽ tác động lớn đến nhận thức, tư tưởng, hành động của quần chúng nhân dân. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Luận điểm này, một mặt khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa, mặt khác là sự kỳ vọng của Người vào đội ngũ văn nghệ sĩ - những chiến sĩ tiên phong trên trận địa tư tưởng, văn hóa, viết lên những tác phẩm lớn, có ý nghĩa để định hướng tư tưởng, tình cảm của quần chúng, nhân lên những giá trị tốt đẹp trong đời sống cộng đồng.
Nhận thức rõ về thực cảnh nền văn hóa dân tộc hiện tại, dưới chính sách cai trị của thực dân, phát xít đã biến nền văn hóa dân tộc “về hình thức là thuộc địa, về nhân dân là tiền tư bản”. Đề cương chỉ ra tiền đồ văn hóa Việt Nam với hai “ức thuyết” (hai khả năng, hai giả thuyết, hai con đường tương lai của văn hóa Việt Nam). Một là, nếu “văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.316.
nô dịch hóa) thắng thì văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ nghèo nàn và thấp kém”. Hai là: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”1.
Theo Đề cương, căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực.
Để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, Đảng yêu cầu cần kiên trì thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc vận động, đó là Dân tộc, Khoa học Đại chúng. Đồng thời phải giữ vững nguyên tắc: “Văn hóa mới Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”2.
Trong điều kiện ngặt nghèo của tình thế đất nước, sự ngột ngạt của đời sống tư tưởng - văn hóa vào đêm trước cách mạng, sự ra đời, lãnh đạo của Đảng với những chủ trương, quyết sách kịp thời trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại nguồn ánh sáng mới, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng, kháng chiến mà thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng hùng hồn.
Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng - nhân tố quan trọng góp phần tạo sự chuyển biến tích cực đối với sự vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam.
2. Đảng lãnh đạo văn hóa trong tình hình mới và những vấn đề đặt ra
Đảng lãnh đạo văn hóa là vấn đề mang tính nguyên tắc, thuộc về bản chất, sứ mệnh của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của cách mạng và công cuộc đổi mới.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, Đảng không ngừng đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, có những điều chỉnh kịp

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.318, 319.
thời về quan điểm chỉ đạo bằng việc ban hành những quyết sách mới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đáp ứng những vấn đề mới nảy sinh từ đời sống văn hóa, văn nghệ.
Đảng lãnh đạo văn hóa, văn nghệ nhằm định hướng quá trình phát triển của nền văn hóa dân tộc; lãnh đạo Nhà nước và các cơ quan bộ, ngành xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, bảo đảm điều kiện về nguồn nhân lực, vật lực; bảo đảm môi trường thật sự tự do, dân chủ, lành mạnh, thúc đẩy văn hóa phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh đến vai trò của các chủ thể trong xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, Đảng khẳng định: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”1.
Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực và tinh thần sáng tạo của nhân dân, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Đánh giá về những kết quả đạt được, Đảng khẳng định: “Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng... Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành;

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.49.
quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc”1.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đảng ta cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa. Nhận định về thực trạng này, Đảng ta chỉ rõ: “So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp. Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”2.
Để phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những bất cập, hạn chế; gìn giữ, phát triển và chấn hưng nền văn hóa dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ giá trị văn hóa và sức mạnh của con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát

_____________

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Tlđd, tr.43-44, 44-46.
triển bền vững đất nước, một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng mà Đảng đề ra và yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị quyết tâm thực hiện, đó là phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, với những nhiệm cụ thể như:
  • Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
  • Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
  • Phải coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng1.
Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để chấn hưng và phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam, trước hết là tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa... Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ Trung ương đến cơ sở. Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa... Phải quán

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Tlđd, tr.58-59.
triệt nghiêm túc quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”1.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường, bên cạnh những điều kiện thuận lợi là những khó khăn, thách thức. Chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa là thống nhất. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý lại có sự can thiệp thô bạo, vận dụng một cách máy móc, hành chính hóa hoạt động sáng tạo, gây ra những hệ lụy không đáng có.
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của internet, mạng xã hội, bên cạnh những mặt tích cực là những những vấn đề nhức nhối đang đặt ra trong công tác tư tưởng, quản lý hoạt động, sáng tạo, thực hành và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa của công chúng trên không gian mạng. Hiện nay, bên cạnh những tư tưởng tích cực, tiến bộ, là những luồng tư tưởng phản động; những âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch muốn lợi dụng văn hóa, văn nghệ để chống phá Đảng, Nhà nước; xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc; hủy hoại và đầu độc tâm hồn con người. Một số tư tưởng, quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa, văn nghệ; đòi tách văn hóa, văn nghệ ra khởi đời sống chính trị.
Những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ tình hình thực tiễn, đòi hỏi quá trình không ngừng đổi mới tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, trong đó có lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Để xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhằm phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.

_____________

1. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.172.
 
NGUYÊN TẮC DÂN TỘC HÓA
CỦA “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN)
D
 
ân tộc hóa là một trong ba nguyên tắc (dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa) xây dựng văn hóa được xác định trong vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng trong việc hình thành nên một nền văn hóa độc lập, tạo điều kiện cho tự cường dân tộc, giải phóng đất nước. Sau 80 năm, nguyên tắc này vẫn còn nguyên giá trị, và sự vận động của nguyên tắc dân tộc hóa có thêm những nội dung mới, tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước.
1. Dân tộc hóa để giải phóng dân tộc
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, nguyên tắc dân tộc hóa được hiểu là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”1. Văn hóa trong Đề cương bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đặt trong bối cảnh năm 1943, tức là khi đất nước ta còn đang chịu ách nô lệ, đô hộ của ngoại xâm thì mục tiêu quan trọng nhất của toàn dân tộc là giành được độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trước đó, Phan Châu Trinh đã nhận ra sức mạnh và cả những điểm yếu của đất nước nói chung (gồm cả văn hóa) trong thời kỳ này. Chính vì thế, ông chủ trương xây

_____________

) Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.319.
dựng một đất nước phát triển trên cơ sở “khai dân trí - chấn dân khí - hậu dân sinh”, ở đó, mở mang nhận thức, tri thức của nhân dân; chấn hưng ý chí, tinh thần, khí phách của nhân dân; đồng thời làm cho đời sống của nhân dân được ấm no, hùng hậu, chính là cách xây dựng và bảo vệ đất nước. Một nhân sĩ trí thức quan trọng khác là Phan Bội Châu cũng nhấn mạnh: “1) Độc lập dân tộc là mục đích tối cao, duy nhất. 2) Tất cả những cách thức, thủ đoạn, đường lối, chiến lược, lực lượng nào có khả năng thúc đẩy thực hiện được mục đích độc lập dân tộc đều được hoan nghênh. 3) Lợi ích dân tộc, thể diện dân tộc là trên hết”1. Từ đó, chúng ta thấy rằng, huy động mọi nguồn lực cho mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc, với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” chính là mục đích của các phong trào yêu nước, đặc biệt là của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên thực tế, văn hóa đã tạo nên sức mạnh thực sự cho dân tộc ta khi chúng ta sử dụng văn hóa để tạo nên sự thống nhất trong nhận thức về lòng yêu nươc. Ngay nh́ ững ngày tháng đầu tiên khi đất nước độc lập, một trong những hoạt động sớm nhất là thành lập các hội văn hóa cứu quốc ở các tỉnh. Ngày 16/11/1946, trong thư của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước, xác định văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc như sau: “1. Trước cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng đóng một vai trò khá quan trọng là tuyên truyền giác ngộ, cổ động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập; 2. Trong cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng phải kích thích tinh thần khởi nghĩa, làm sôi nổi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân nổi dậy tất cả giành lấy chủ quyền; kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy. 3. Sau cuộc cách mạng, văn hóa cách mạng phải động viên mọi lực văn hóa của dân tộc, hăng hái tham gia kiến quốc; gây đời sống mới, gột rửa những tư tưởng, tập quán hủ bại, giáo dục nhân dân, làm cho dân tộc có một nền văn hóa tiến bộ”2. Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ cụ thể của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này là: “Phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc; củng

_____________

  1. Lê Thị Lan: Chủ nghĩa dân tộc của Phan Bội Châu dưới nhãn quan triết học, Tạp chí Triết học, số 11 (186), 2006, tr.35.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.11.
cố đức tin của dân tộc ở sự nghiệp dân tộc giải phóng”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu Tổ quốc trên hết như một cách để huy động nhân dân, lấy lợi ích của Tổ quốc để liên kết mọi người.
Như vậy, dân tộc hóa chính là cách chúng ta huy động tình yêu nước thông qua nhận thức về những giá trị chung, nguồn gốc tổ tiên chung của dân tộc, từ đó hình thành nên sức mạnh của tình đoàn kết. Đất nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Kết quả, chúng ta đều chiên thắng mọi kẻ thù xâm lược. Vũ khí lớn nhất của chúng ta không phải là khí tài quân sự hiện đại mà chính là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Mọi người đều thuộc và hiểu nội dung của những bài Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, hay Bình Ngô đại cáo, các câu ca dao, tục ngữ về lòng yêu nước, những câu chuyện gắn bó con người với đất nước như về Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung...
Không phải ngẫu nhiên, năm 1954, trước khi về Thủ đô, Bác Hồ đến thăm Đền Hùng và để lại câu nói truyền cảm hứng và niềm tin cho toàn dân tộc: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi lãnh tụ chính là môt kệ t quá tẩ t yế u cú a t̉ ư tương dân tổ c họ a. Nh́ ững bài hát với lời ca như “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “ta tự hào đi lên ôi Việt Nam”, “Đảng đã cho ta cả mùa xuân của cuộc đời. Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai”... đã là niềm cảm hứng cho bao thế hệ thanh niên tình nguyện, vui vẻ ra trận; Những bài hát về chủ tịch Hồ Chí Minh như “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người”, “Người là niềm tin tất thắng”... đến nay vẫn là nguồn cổ vũ, động viên mọi người về tấm gương đạo đức, luôn đem lại biết bao xúc động trong lòng nhân dân cả nước. Đây chính là sức mạnh tinh thần quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và giải phóng đất nước về sau này để văn hóa trở thành cột mốc chủ quyền của đất nước.
Đặt trong mối quan hệ với hai nguyên tắc còn lại là đại chúng hóa và khoa học hóa, chúng ta càng thấy rõ hơn ý nghĩa của nguyên tắc dân tộc hóa. Một dân tộc mạnh phải dựa trên sức mạnh của quần chúng, còn một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Quan tâm đến quần chúng nhân dân, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa trên sự phát triển của khoa học, giáo dục sẽ giúp dân tộc ta

_____________

  1. ập, Sđd, t.8, tr.145.
vững vàng và tự tin hơn trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
  1. Dân tộc hóa để xác định chủ quyền quốc gia về văn hóa
Các quốc gia có quyền chủ quyền về văn hóa. Cùng với chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền lãnh hải, chủ quyền văn hóa cũng là một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đề cao văn hóa dân tộc chính là cách chúng ta xác định chủ quyền quốc gia về văn hóa, cũng như đưa văn hóa trở thành sức mạnh để gìn giữ chủ quyền ấy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Tôi mong chúng ta đem văn hóa lãnh đạo quốc gia để thực hiện độc lập, tự cường và sáng tạo”1.
Trong Đề cương, Đảng ta đã xác định ba công việc phải làm (tranh đấu về học thuyết, tư tưởng để làm cho học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng; tranh đấu về tông phái văn nghệ để làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; tranh đấu về tiếng nói, chữ viết), trong đó, tiếng nói và chữ viết được xem như một sự khẳng định văn hóa rõ ràng nhất. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện để giao tiếp, là công cụ để tư duy mà nó còn được xem là “linh hồn của dân tộc”. Sinh thời, khi nói về ngôn ngữ tiếng Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”2. Việc bảo vệ ngôn ngữ tiếng Việt cũng là bảo vệ văn hóa đất nước, thể hiện nguyên tắc dân tộc hóa trong xây dựng văn hóa Việt Nam.
Ở một cách tiếp cận văn hóa rộng hơn, trải qua 80 năm, nguyên tắc dân tộc hóa vẫn còn nguyên giá trị và được bổ sung thêm những nội dung mới, phù hợp hơn với hoàn cảnh phát triển đất nước. Năm 2005, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ra Công ước về bảo vệ và phát huy các biểu đạt đa dạng của văn hóa như một cách để toàn nhân loại trân trọng những giá trị văn hóa khác nhau của các dân tộc khác nhau.

_____________

  1. “Vì tình thế, Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã bế mạc sau một ngày thảo luận”, Báo Cứu quốc, ngày 25/11/1946, tr.4.
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.465.
 
Chính việc tôn trọng các biểu đạt đa dạng văn hóa giúp chúng ta hiểu nhau hơn, giúp gìn giữ hòa bình của thế giới, làm giàu có hơn kho tàng văn hóa, tri thức của nhân loại. Văn hóa là chủ quyền quốc gia, hay như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn”.
Đất nước hòa bình, văn hóa mang sứ mệnh mới trong việc xây dựng tổ quốc độc lập, tự do, hạnh phúc. Từ cách tiếp cận của Đề cương là: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”1, các quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn hóa được thể hiện rõ trong các nghị quyết, tập trung nhấn mạnh vào việc xây dựng một nền văn hóa mới, ở đó, văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, đồng thời là hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những cơ hội và thách thức từ quá trình hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường vừa giúp đất nước ta có thêm điều kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, vừa đe dọa giá trị văn hóa dân tộc, vì thế, năm 1998, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2008, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh mục tiêu: “Xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”2. Đây là sự lựa chọn sáng suốt trong việc kiên trì bảo vệ những giá trị văn hóa dân tộc, hội nhập mà không hòa tan, xác định bảo vệ văn hóa cũng là bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời chủ động lựa chọn những giá trị tinh hoa của văn hóa thế giới, làm giàu có hơn cho văn hóa của đất nước, thể hiện tư tưởng đổi mới trong phát triển văn hóa.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.320.
t.67, tr.652.
Đánh giá về những nỗ lực phát triển văn hóa, Phạm Duy Đức nhấn mạnh: “Trong thời kỳ vừa qua, các hoạt động văn hóa, nhất là lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, lĩnh vực văn học, nghệ thuật, lĩnh vực thông tin đại chúng đã có nhiều thành tựu trong việc khẳng định, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật và các sản phẩm truyền thông để tuyên truyền, cổ vũ, khơi dậy khát vọng về một Việt Nam hùng cường, hạnh phúc”1. Rõ ràng, những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, từ những sinh hoạt lễ hội tới những bài hát, bộ phim, bức tranh, vở kịch không chỉ tôn vinh những giá trị, hình ảnh đẹp về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam, mà còn giúp chúng ta có thêm niềm tự hào, tự tin và bản lĩnh văn hóa để khẳng định mình trong quá trình hội nhập quốc tế, ở đó, bất cứ một quốc gia nào không khẳng định được bản sắc và giá trị văn hóa của mình, sẽ dễ bị hòa tan, bị xâm lăng văn hóa.
3. Dân tộc hóa để tạo sức mạnh nội sinh cho dân tộc
Sức mạnh nội sinh bắt nguồn từ những giá trị văn hóa dân tộc, được đúc kết, chưng cất qua hàng nghìn năm lịch sử, trở thành tài sản quan trọng của dân tộc ta. Để hình thành nên sức mạnh nội sinh, đó là cả một quá trình đấu tranh, lựa chọn, gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa đó. Lấy lợi ích dân tộc làm trung tâm, đất nước ta đã tạo ra nhiều kỳ tích. Trong Đề cương, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”2. Trong bối cảnh hiện nay, phát triển văn hóa cần phải tạo tác động lan tỏa sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị, kinh tế. Chủ trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa chính là một trong những nhiệm vụ đột phá, thực hiện theo đúng xu thế và hoàn cảnh đất nước. Các ngành công nghiệp văn hóa, dựa vào tài năng sáng tạo, nguồn lực văn hóa, công nghệ và kỹ năng

_____________

1. Phạm Duy Đức: “Một số giải pháp thực hiện nhiệm vụ khơi dậy khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước”, in trong Kỷ yếu Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tổ chức ngày 24/11/2021 tại Hà Nội, tr.101.
t.7, tr.316.
kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, không chỉ đưa những giá trị văn hóa vào các sản phẩm kinh tế để tạo ra lợi thế cạnh tranh, lợi ích vật chất1, mà còn mang đến những hình ảnh đẹp, kể những câu chuyện hấp dẫn về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam, qua đó giúp chúng ta hình thành nên sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh của dân tộc.
Để khẳng định sức mạnh nội sinh của dân tộc, chúng ta cần lưu tâm đến những định hướng của Đề cương, ở đó, “muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v”2. Rõ ràng, chúng ta đang ở trong một bối cảnh xã hội rất phức tạp. Những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của các phương tiện truyền thông mới với internet và mạng xã hội, đã khiến sự phát triển văn hóa đang gặp những khó khăn hơn bao giờ hết. Nguyên tắc phát triển văn hóa cần tránh bảo thủ để lựa chọn được tinh hoa văn hóa thế giới, tránh lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm để hình thành nên một môi trường tích cực, văn minh, thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Ví dụ như quá trình hội nhập quốc tế tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trong phát triển kinh tế - xã hội. Giờ đây, thế giới đã thực sự phẳng và trở thành một ngôi làng toàn cầu khiến cho chúng ta có thể cập nhật thông tin, kiến thức nhanh hơn, nhiều hơn. Chúng ta đã cùng đồng thời tận hưởng, cập nhật, không bị lạc hậu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật với mọi người dân trên thế giới. Điều đó chứng minh quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước ta vào đời sống thế giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có văn hóa nghệ thuật. Như thế, đời sống văn hóa nghệ thuật cũng trở nên phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu thưởng thức ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân trong nước. Tuy nhiên, rõ ràng chúng ta đang gặp phải những vấn đề nhất định trong quá trình hội nhập đó, đặc biệt là việc chúng ta tiếp thu văn hóa nghệ thuật nước ngoài quá nhiều, chưa thực sự chọn lọc, trong khi đó, việc giới thiệu văn hóa nghệ thuật của Việt Nam ra thế giới còn hết sức hạn chế.

_____________

1. Năm 2020, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa văn hóa Việt Nam đạt 2.954.771.516 đôla Mỹ (theo COMTRADE).
t.7, tr.319.
 
Tức là chúng ta đang thua trên chính sân nhà của mình trong “cuộc đua” chiến lược “quảng bá sức mạnh mềm văn hóa”. Điều này dẫn đến nguy cơ bị xâm lăng văn hóa khi người dân, đặc biệt là giới trẻ say mê với những bộ phim, câu chuyện, bài hát, thời trang hay các phong cách sống của nước ngoài, mà quên đi những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Đây là xu thế hết sức đáng báo động khi chúng ta biết điều này không chỉ dẫn đến việc xao nhãng văn hóa dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, chính việc thất thế trong mặt trận văn hóa nghệ thuật sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của đất nước, trong nỗ lực xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà chúng ta đang theo đuổi. Đây cũng chính là một trong những lý do quan trọng để chúng ta có thêm quyết tâm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa tạo nên sức mạnh tổng hợp cho đất nước, tạo nên bản lĩnh, sự tự tin cho cả dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
*
                                                                                       *          *
Đánh giá về tầm quan trọng của Đề cương, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh: “Đảng đã coi xây dựng văn hóa dân tộc là một bộ phận của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời nói lên tầm vóc chính trị tư tưởng sâu sắc của một chính đảng của giai cấp công nhân, đánh dấu bước phát triển mới của văn hóa nước nhà. Vì vậy, Đề cương về văn hóa Việt Nam mang đầy đủ ý nghĩa của một bản cương lĩnh về văn hóa, bổ sung cho cương lĩnh chính trị của Đảng (...) Giá trị lý luận của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam là ở chỗ, lần đầu tiên, chúng ta công bố quan niệm của mình về văn hóa theo quan điểm mácxít, văn hóa được xác định là một trong ba mặt trận (cùng với mặt trận chính trị và kinh tế) trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo nên bước ngoặt trong nhận thức về vai trò và sứ mệnh của văn hóa đối với đời sống xã hội”1.

_____________

1. Nguyễn Khoa Điềm: “Kế thừa và phát triển những giá trị lý luận của Đề cương văn hóa lên một tầm cao mới”, in trong 60 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Bộ Văn hóa - Thông tin, 2004, tr.14-15.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu vừa là động lực, là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội là những quan điểm cơ bản cho sự phát triển văn hóa ngày nay đã bắt nguồn từ những tư tưởng đầu tiên của Đảng về phát triển nền văn hóa Việt Nam dân tộc, khoa học, đại chúng này. Trải qua thời gian, cùng với những chặng đường phát triển từ mục tiêu giành lại độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước, và hội nhập quốc tế, nguyên tắc dân tộc hóa đã giúp định hướng đất nước trong việc giải phóng dân tộc, xác định chủ quyền quốc gia, tạo sức mạnh nội sinh cho dân tộc. Ngày nay, chúng ta rất cần bổ sung những thông điệp, nội dung mới cho nguyên tắc dân tộc hóa, để từ đó hình thành nên sức mạnh nội sinh, hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam từ nguyên tắc quan trọng này.

KHẢ NĂNG VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
TRONG BÙ LẤP KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU VĂN HÓA GIAI ĐOẠN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
PGS.TS. NGUYỄN HỮU SƠN*
  1. Nhằm xác định đúng mức mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước với phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật hiện nay, tôi cho rằng chúng ta cần quan tâm trở lại “bản lai diện mục” lịch sử văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cũng như bài học cách thức ứng xử, tiếp nhận giai đoạn văn học này suốt từ năm 1945 đến nay để phân biệt rõ tương quan giữa các đặc điểm và giá trị văn học. Trải qua ngót nửa thế kỷ “gió dập sóng dồi”, những giá trị Chân - Thiện - Mỹ đích thực của nền văn học dưới thời thực dân nửa phong kiến giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX cuối cùng rồi cũng từng bước được khẳng định, khôi phục, tái hòa nhập trong dòng chảy văn hóa dân tộc và hiện đại1...
  2. Tiếp nối các loại báo chí nghiêng về khảo cứu văn hóa văn nghệ ở chặng đường đầu thế kỷ như Đông Dương tạp chí(1913-1919), Nam phong         tạp chí (1917-1934), vào chặng cuối thời thực dân và đêm trước của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã xuất hiện thêm hai cơ quan ngôn luận học thuật đặc biệt

_____________

* Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
1. Xem Nguyễn Hữu Sơn: “Vấn đề nghiên cứu, tiếp thu, “bù lấp” những khoảng trống lý luận văn học, nghệ thuật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX”, Hội thảo Khoa học quốc gia “Nhìn lại 15 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa V) “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”“ do Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Tam Chúc (Hà Nam), ngày 19/12/2022, 9 trang.
quan trọng là “nhóm Tri tân” với nòng cốt là cơ quan ngôn luận Thanh nghị (1941-1945), Tri tân tạp chí (1941-1945), trong đó có thể thấy rõ cả hai tạp chí trong ba năm sau (1943-1945) đều chuyển động, chịu ảnh hưởng của Đề cương văn hóa Việt Nam (1943).
2.1. Đã qua hơn bảy mươi năm kể từ ngày nhóm tạp chí Thanh nghị ra mắt bạn đọc (1941) nhưng số phận tờ tạp chí và những vấn đề tư tưởng của nhóm Thanh nghị trong bối cảnh lịch sử - văn hóa - văn nghệ nửa đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX vẫn chưa phải đã được đánh giá đầy đủ, đúng mới. Kể từ khi công cuộc đổi mới (1986) do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và khởi xướng thì nhiều vấn đề của quá khứ - trong đó có vấn đề tư tưởng văn nghệ của nhóm Thanh nghị mới được soát xét, thẩm định, đánh giá trở lại.
Muốn đánh giá đúng đắn những vấn đề tư tưởng văn nghệ của nhómThanh nghị, trước hết cần đặt tờ tạp chí này trong chính bối cảnh đời sống văn nghệ dân tộc nửa đầu thập kỷ 40 và trong tiến trình phát triển chung của đời sống chính trị, tinh thần xã hội giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Khả năng xét đoán này cần được đặt trong những định hướng lớn của Đảng để thấy rõ hơn tính lịch sử cụ thể, kể cả những giới hạn nhận thức cũng như yêu cầu cần đặt trong tương quan những vấn đề chung của đất nước, dân tộc.
Trong bài Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này được viết vào ngày 13/9/1944 và hơn một năm sau mới chính thức đăng trên báo Tiên phong, trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Trường Chinh (1907-1988) nhận xét: “Những nhà văn trong nhóm Thanh Nghị (tư sản dân tộc) thực hành ba khẩu hiệu trên kia không được đầy đủ, vì họ không nhận rõ được thời bệnh của văn hóa Việt Nam, cũng không thể đóng vai trò lãnh đạo văn hóa mới, và nhất định nguồn văn của họ sẽ cạn, nếu họ không tự sớm hợp tác với văn hóa vô sản để chống chủ nghĩa phát xít... Đáng lẽ phải tập trung mọi lực lượng văn hóa Việt Nam thành một mặt trận văn hóa đặng chống lại văn hóa ngu dân, văn hóa thoái hóa và trung cổ của bọn phát xít, chống thủ đoạn xâm lấn nguy hiểm của văn hóa Nhật, thì họ lại chia rẽ mặt trận văn hóa của dân tộc ta và bởi thế họ đã vô tình hay cố ý làm lợi cho lũ giặc nước. Thật thế, tại sao họ lại chĩa ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào các người văn hóa dân tộc (Tri Tân, Thanh Nghị), trong khi quyền lợi sinh tử của dân tộc bắt
 
phải liên minh thân thiện với các người văn hóa ấy đặng chĩa ngọn lửa đấu tranh văn hóa vào phát xít Nhật - Pháp?”1.
Kể từ thời đổi mới (1986), hàng loạt các vấn đề về văn nghệ đầu thế kỷ XX đã được đánh giá trở lại một cách khách quan, công bằng hơn. Trong công trình Lý luận, phê bình và đời sống văn chương, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện đã nhắc đến Đinh Gia Trinh (1915-1974) như một yếu nhân của nhóm Thanh nghị: “Đồng thời hăng hái hoạt động báo chí, tham gia nhóm Thanh nghị, là một trong những cây bút chủ lực trên tờ tạp chí của nhóm. Từ số đầu tiên (1941) đến số cuối cùng (1945) trên tạp chí Thanh nghị, ông đã cho đăng ngót 100 bài, gồm: các tiểu luận, phê bình, khảo cứu, tùy bút... về các vấn đề xã hội, tư tưởng, đặc biệt là về văn chương nghệ thuật”2... Để có thể hiểu đúng tư tưởng văn nghệ của nhóm Thanh nghị thì trước hết cần nắm bắt đầy đủ diện mạo của tạp chí cũng như đội ngũ tác giả chủ yếu xoan quanh tạp chí này. Dựa theo Thanh nghị - Hồi ký của Vũ Đình Hòe3 (chủ nhiệm tờ tạp chí). Trên tinh thần Dân tộc - Đại chúng - Khoa học của Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943), nhóm tạp chí Thanh nghị đã đặt ra nhiều vấn đề tư tưởng văn hóa mà đến nay chúng ta cần soát xét, đánh giá lại một cách chuẩn mực, hợp lý hơn.
2.2. Khi thực hiện công trình sưu tập và giới thiệu Tạp chí Tri tân (19411945) - Phê bình văn học4, chúng tôi đã đặc biệt nhấn mạnh đến vị thế các công trình khảo cứu mang đậm âm hưởng tôn vinh lịch sử và văn hóa dân tộc. Tương tự cách làm của hầu hết các tạp chí đương thời, Tri tân cũng thuộc loại tạp chí văn hóa có tính chất tổng hợp, đăng hàng loạt bài hô hào “người mình” chú ý đến khoa học, kỹ nghệ, phê phán lối học từ chương và sự say mê lối “văn nhược”. Việc hô hào này chắc chắn có sơ sở từ không khí xã hội đương thời, do

_____________

  1. Trường Chinh: Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động tân văn hóa mới Việt Nam lúc này. Tiên phong, số 2, ra ngày 1/12/1945. In trong Tuyển tập văn học, tập I, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.57-59.
  2. Nguyễn Ngọc Thiện: Đinh Gia Trinh (1915-1974), trong sách Lý luận, phê bình và đời sống văn chương, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.395-396.
  3. Vũ Đình Hòe: Thanh nghị - Hồi ký, in lần hai, có sửa chữa, bổ sung, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, 766 trang.
  4. Trịnh Bá Đĩnh - Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tập, giới thiệu): Tạp chí Tri tân (1941-1945) - Phê bình văn học, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999, 618 trang.
ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ hai (khởi đầu từ năm 1939) và chính nhu cầu mở rộng kiến văn, nhu cầu hiện đại hóa và phát triển trong thời buổi giao lưu và hội nhập Đông - Tây (chủ yếu từ nước Pháp) đã vào độ chín, cho đến chặng đường cuối là ảnh hưởng trực diện của Đề cương văn hóa Việt Nam (1943).
Việc nhìn nhận về tư tưởng văn nghệ của nhóm Tri Tân nửa đầu thập niên 40 thế kỷ XX cần được nhìn nhận, soát xét trên cơ sở tính lịch sử cụ thể và tính khách quan, khoa học của toàn bộ quá trình tiếp nhận của học giới và độc giả trong suốt hai phần ba thế kỷ vừa qua. Một trong những người sớm đánh giá lại giá trị của nhóm Tri Tân (1941-1945) đối với nền văn hóa đương thời cũng như toàn bộ tiến trình lịch sử đời sống văn hóa dân tộc tiếp tục là đồng chí Trường Chinh trong bài viết Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này: “Các nhà văn trong nhóm “Tri Tân” (trí thức phong kiến) thiên trọng về khẩu hiệu dân tộc hóa, nhưng lại nệ cổ và không đếm xỉa đến hai khẩu hiệu khoa học và đại chúng hóa, nên đã bị công kích là thủ cựu, là gàn (...). Cái chiêu bài “tân văn hóa” của nhà Hàn Thuyên ở đó một số tờrốtkít đang hoành hành, chẳng đáng ngờ lắm sao?”1.
Việc hiểu cho đúng luận điểm của đồng chí Trường Chinh cũng như tư tưởng văn nghệ và toàn bộ thành tựu của nhóm Tri Tân nhất thiết cần phải đặt trong tính lịch sử cụ thể và tiến trình phát triển chung của nền văn nghệ cách mạng, lịch sử dân tộc những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XIX. Quán chiếu tinh thần đổi mới, giới nghiên cứu đã từng bước tiếp cận, khai thác trở lại các nguồn tư liệu nhằm dựng lại chân dung, diện mạo “bản lai diện mục” tạp chí Tri Tân, từ đó xác định rõ hơn những đóng góp và hạn chế về tư tưởng văn nghệ của nhóm Tri Tân...
Trong công trình thư mục học Mục lục phân tích tạp chí Tri Tân 19411945, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên nhấn mạnh ý nghĩa của tạp chí đặt trong tương quan các công trình khảo cứu đương thời trước thực tế đời sống xã hội: “Có những tổ chức chính trị nhưng có những hoạt động văn hóa, văn học dọn đường cho cuộc cách mạng rất gần... Chúng tôi gọi thời điểm này là

_____________

1. Trường Chinh: Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động tân văn hóa mới Việt Nam lúc này, Tiên phong, số 2, ra ngày 1/12/1945, tr.4.
 
Thời tiền cách mạng”1... Đồng thuận với ý kiến trên GS. sử học Đinh Xuân Lâm đã khách quan nhận xét: “Và điều quan trọng hơn là bao trùm lên nội dung toàn bộ các bài của tạp chí, đó là một tình cảm tự hào về truyền thống đấu tranh yêu nước, chống xâm lược; về truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; về thiên nhiên tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc”2... Điều này cho thấy sự gián cách tương đối với thế sự, không chạy theo tính thời sự nhất thời và tinh thần “nệ cổ” hóa ra lại là một trong những điểm khả thủ quan trọng làm nên giá trị văn hóa lâu bền... Tiếp theo là công trình Tạp chí Tri Tân 1941-1945: Phê bình văn học thực hiện tuyển chọn các tiểu luận nghiên cứu cơ bản nhất liên quan đến cả văn hóa - văn học truyền thống và đương đại, trong đó nhấn mạnh vai trò sáu nhà khảo cứu, phê bình văn học chủ chốt (Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Hoa Bằng, Nguyễn Văn Tố, Hoàng Thiếu Sơn, Phạm Mạnh Phan)... Từ đây, diện mạo tư tưởng văn nghệ trên tạp chí Tri Tân được khẳng định mạnh mẽ hơn và được giới nghiên cứu hoan hỷ đón nhận... Rồi trong năm 2000 xuất hiện liên tiếp hai công trình sưu tập quan trọng. Thứ nhất, sách Tạp chí Tri Tân 1941-1946: Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam 3. Thứ hai, công trình sưu tập, giới thiệu Tạp chí Tri Tân 1941-1945: Truyện và ký4. Tiếp theo, nhân 80 năm tra đời công trình tuyển soạn Tinh hoa du ký trên Tri Tân Tạp chí 1941-19425 góp phần khôi phục và khẳng định phần sáng tác của tạp chí.
Mặc dầu về khách quan, tạp chí Tri Tân đã góp phần không nhỏ vào việc gây dựng lại tinh thần phụ hưng dân tộc, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho thế hệ thanh niên sẽ tham gia cách mạng và chiến tranh vệ quốc nhưng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính tạp chí Tri Tân lại tỏ

_____________

  1. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục phân tích Tạp chí Tri tân 1941-1945, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1998, tr.6.
  2. Đinh Xuân Lâm: Lời giới thiệu, trong sách Mục lục phân tích tạp chí Tri tân 19411945, Sđd, tr.3.
  3. Nguyễn Quang Ân, Phạm Đình Nhân, Phạm Hồng Toàn (Sưu tầm và tuyển chọn): Tạp chí Tri tân 1941-1946: Các bài viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 2000, 592 trang.
  4. Xem Lại Nguyên Ân và Nguyễn Hữu Sơn (Sưu tầm và biên soạn): Tạp chí Tri Tân 1941-1945: Truyện và ký,   Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000, 884 trang.
  5. Xin xem Nhiều tác giả: Tinh hoa du ký trên Tri Tân Tạp chí 1941-1942 (Nguyễn Hữu Sơn - Trần Bá Dung sưu tập, giới thiệu), Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 396 trang.
ra không thích hợp trong đời sống văn hóa những năm đầu dưới chính thể mới. Tạp chí tự nguyện đình bản vào cuối năm 1945. Hầu hết những người chủ trương hoặc cộng tác với Tri tân đều hăng hái tham gia các hoạt động kháng chiến kiến quốc...
3. Có thể xác định thực tế diện mạo lịch sử văn hóa và những nhận định trên đây là cơ sở quan trọng để chúng ta cùng vận dụng, xem xét, trao đổi, đánh giá về hiện trạng, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp thu, “bù lấp” những khoảng trống lý luận văn học, nghệ thuật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Qua thời gian, nhiều dòng văn và thể tài văn học trước đây bị cấm đoán (văn học lãng mạn, Thơ mới, 1932-1945...) đã từng bước được BÙ LẤP, khôi phục, phục hồi trở lại.
Như thông lệ, việc triển khai các hoạt động ngay sau Đại hội Đảng luôn có ý nghĩa to lớn và đã được triển khai, cụ thể hóa bằng Hội nghị Văn hóa toàn quốc vào ngày 24/11/2021 như một sự tiếp nối của tinh thần.
Tôi thuộc nhóm các nhà chuyên môn, vừa làm nghiên cứu (Viện Văn học), nhà văn (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hà Nội) và nhà báo (Tạp chí Nghiên cứu Văn học), thế tất cần quan tâm, nhấn mạnh những vấn đề cụ thể của đời sống văn hóa, văn học, văn chương. Từ sự trải nghiệm, đúc kết bài học kinh nghiệm và những quan sát thực tế, tôi nhấn mạnh ba vấn đề thời sự liên quan đến nội dung nghiên cứu, tiếp thu, “bù lấp” những khoảng trống nghiên cứu văn hóa - văn học sử thuộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX trong vận hội thế kỷ XXI.
Tiếp tục phát huy sức mạnh Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) và tinh thần Đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, mở đường cho mọi tài năng phát triển để có được “những tác phẩm lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta”. Đổi mới là thay đổi, vận động, chấn chỉnh và phát triển. Hầu hết các bản nhạc vàng, nhạc bolero đã tái hiện trong nhiều chương trình văn nghệ, hội nhập vào gia tài âm nhạc dân tộc... Chúng ta nhận ra những hạn chế của tư duy văn học giai đoạn kháng chiến nhưng không dẫn đến phủ nhận cực đoan; chúng ta thực sự cầu thị đánh giá, tiếp nhận lại di sản văn nghệ quá khứ nhưng có điều kiện, có thời gian, quá trình; chúng ta chủ động mở rộng tiếp thu các giá trị tinh thần từ bên ngoài nhưng không làm mất bản sắc dân tộc. Theo tôi, bên cạnh việc khai thác, phát huy các giá trị bản sắc truyền thống ngàn năm dân tộc cần đặc biệt chú ý di sản văn hóa, văn nghệ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX (vai trò chữ Quốc ngữ, xu thế hiện đại hóa và hội nhập Đông - Tây)... Khắc phục hoàn cảnh “bất bình thường” của thời kỳ chiến tranh, đất nước qua phân hai miền và nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân dân tộc, đến nay chúng ta đã hội đủ điều kiện, bản lĩnh chính trị và học thuật để khai thông, tiếp nhận trở lại di sản hóa, văn nghệ thời cận hiện đại. Dưới ánh sáng Đổi mới, trong những năm gần đây, một số hiện tượng tác giả, tác phẩm, trào lưu văn nghệ từng bị phê phán, đánh giá nặng nề đã được khôi phục và xuất bản, từng bước sửa sai, hòa giải với quá khứ, bù đắp những khoảng trống văn hóa sử, trả lại sự công bằng và góp phần làm giàu kho tàng văn hóa thời cận hiện đại. Như ông cha ta thường nói, “Có bột mới gột nên hồ”. Công việc này trước hết đặt cược vào nhiệm vụ sưu tập văn bản hiện đang tản mát khắp trong Nam ngoài Bắc, trong và ngoài nước, thư viện công và tư gia. Cần nói thêm rằng loại di sản văn hóa, văn nghệ này đang ngày một lâm tình thế “tuyệt chủng”, nguy cơ “một đi không trở lại”. Rất tiếc công việc nặng nề này còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa trở thành chủ trương, đường lối, định hướng, chính sách chuẩn mực, sâu rộng của Đảng và Nhà nước, chí ít cũng có ý nghĩa thời sự, cấp bách, chiến lược trong khoảng mười, hai mươi năm tới. Đồng thời, bên cạnh quy chế dân chủ, cần đặc biệt tăng cường sự lãnh đạo kịp thời, sâu sát của tổ chức Đảng với công tác văn hóa, văn nghệ. Chẳng hạn, trên quan điểm lịch sử và hệ thống tư liệu, cần khôi phục, ghi nhận đúng mức đóng góp của các tác giả xa và gần từng bị đánh giá thiên lệch (Phạm Quỳnh1, Phan Khôi2, Trương Tửu3, v.v..); nhiều tổ chức văn đoàn, tạp chí từng bị phê phán nặng nề, cực đoan, một chiều (Nam phong Tạp chí, Thanh nghị, Tri tân Tạp chí,, v.v..)4...

_____________

  1. Phạm Quỳnh: Luận giải văn học và triết học (Trịnh Bá Đĩnh sưu tập và giới thiệu), Nxb. Văn hóa - Thông tin và Trung tâm Ngôn ngữ, văn hóa Đông Tây, Hà Nội, 2003, tr.572.
  2. Xem Phan Khôi (2003-2019): Tác phẩm đăng báo, 12 tập, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Văn hóa, ngôn ngữ Đông - Tây, 8000 trang.
  3. Trương Tửu: Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu văn hóa (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn, giới thiệu), Nxb. Văn học, Hà Nội, 2013, tr.1272.
  4. Nguyễn Hữu Sơn: “Kỳ vọng nguồn sáng Hội nghị Văn hóa toàn quốc: Các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ sĩ nêu cao tinh thần trách nhiệm, nói thẳng nói thật”, Điện tử Tổ quốc (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), https://bvhttdl.gov.vn › ky-vong-nguon-sang-hoinghi-... 6/11/2021.
*
*     *
Nhìn lại lịch sử đời sống lý luận văn học, nghệ thật giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX dưới ánh sáng Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) có thể thấy rõ quá trình phát triển gắn kết trên cả hai phương diện đặc điểm và giá trị mới mẻ. Đặc điểm của văn hóa có nhiều nhưng giá trị chung, phổ quát bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa các phẩm chất Chân - Thiện - Mỹ và được cụ thể hóa bằng các tiêu chí Dân tộc - Đại chúng - Khoa học. Tuy nhiên, bản thân các khái niệm này cũng vừa có những giá trị trường tồn vừa in dấu ấn đặc điểm của từng phong cách tác giả, tác phẩm, nội dung, hình thức, thể loại, giai đoạn và thời đại văn học cụ thể... Trên cơ sở điểm tựa của không khí dân chủ và thước đo giá trị Chân - Thiện - Mỹ, chắc chắn di sản giá trị lý luận văn học, nghệ thuật của ông cha nói chung (giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX nói riêng) sẽ tiếp tục được khai thác, xuất bản, phát huy và hòa mạng di sản tinh thần dân tộc trong thời đại giao lưu, hội nhập trên toàn thế giới hôm nay.
 
ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA CỦA ĐẢNG

TRONG “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 NGỌN CỜ TẬP HỢP VĂN NGHỆ SĨ, TRÍ THỨC YÊU NƯỚC, GÓP PHẦN ĐƯA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN THÀNH CÔNG

TS. TRẦN THỊ MAI THANH)
TS. NGUYỄN THỊ HUỆ
N
 
ăm 1943, trước những biến động của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là sự phân hóa sâu sắc trong các giai tầng xã hội Việt Nam, trong đó có văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước, tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám (1941) Đảng ta chủ trương cần thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó chú trọng lôi kéo, tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức tham gia cách mạng, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đáp ứng sứ mệnh lịch sử cấp bách này, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã ra đời. Đường lối văn hóa của Đảng thể hiện trong Đề cương đã có tác dụng soi đường, định hướng và trở thành ngọn cờ tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước tham gia cách mạng, góp phần đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi.
1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” ra đời là một yêu cầu tất yếu khách quan của lịch sử
Ngày 1/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày càng lan rộng, Nhật xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù thống trị cao nhất tại Đông Dương.

_____________

) Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội rất phức tạp, đặc biệt là về văn hóa. Phát xít Nhật tuyên truyền thuyết “Đại Đông Á” với luận điệu đuổi người da trắng về châu Âu và trả lại đất cho người da vàng. Với thuyết Đại Đông Á, phát xít Nhật đã làm cho một số trí thức không thấy bản chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít và tin rằng người Nhật sẽ giúp đỡ các dân tộc da vàng thoát khỏi ách thuộc địa của các nước phương Tây. Chính sách văn hóa của phát xít Nhật còn nguy hại ở chỗ là dùng bất cứ hình thức nào, phương diện nào, miễn là đánh lạc hướng người dân Việt Nam khỏi con đường cứu nước do Đảng và Mặt trận Việt Minh lãnh đạo.
Dưới ách thống trị của Pháp và Nhật, các dân tộc Đông Dương rơi vào tình trạng “một cổ hai tròng”, mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc. Đấu tranh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa sống còn. Vấn đề huy động lực lượng cho một cuộc cách mạng làm thay đổi vận mệnh dân tộc trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Nhưng để thức tỉnh được quần chúng, định hướng được nguồn lực, quy tụ được sức mạnh, đối tượng phù hợp nhất cho bước mở đầu này, không thể là ai khác ngoài tầng lớp trí thức đương thời. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử phức tạp này, bản thân tầng lớp trí thức, như thực tế lịch sử cho thấy, là lực lượng đang bị chia rẽ bởi những khuynh hướng văn hóa - tư tưởng khác nhau. Một bộ phận trí thức, một mặt quay sang bài Pháp, chê bai và miệt thị văn hóa phương Tây, mặt khác lại tỏ rõ lòng tin mù quáng, ca ngợi thuyết “đồng văn, đồng chủng”; tuyên truyền chính sách “Đại Đông Á” của Nhật. Một số trí thức còn cam tâm làm tay sai cho Nhật, lún sâu vào con đường phản nước, hại dân. Bên cạnh đó, một bộ phận trí thức khác lại tỏ rõ lòng trung thành, tung hô khẩu hiệu “Pháp - Việt phục hưng”, hết lòng ca ngợi công lao “khai hóa văn minh” của Pháp. Có những nhà khoa học âm thầm nghiên cứu, coi bản thân mình không dính dáng tới chính trị và thời cuộc, họ không nhận ra tiền đồ của đất nước và trách nhiệm của mình đối với dân tộc.
Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Thường vụ của Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến 28/2/1943 tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) đã chính thức công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo.
2. Đường lối văn hóa của Đảng trong “Đề cương về văn hóa Việt
Nam”   năm 1943
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương lần thứ tám là một trong những hội nghị hết sức quan trọng của Đảng nhằm đề ra những chủ trương cụ thể, sát hợp với diễn biến mới của thời cuộc, đẩy mạnh phong trào cách mạng phát triển. Một trong những nội dung mà Hội nghị hết sức quan tâm là vấn đề văn hóa bởi khi đó văn hóa Việt Nam đang lâm vào tình trạng hỗn loạn, nhiều khuynh hướng tư tưởng tiêu cực xuất hiện và một bầu không khí ảm đạm bao trùm lên đời sống văn hóa Việt Nam. Cho ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam vào thời điểm hết sức đặc biệt khi thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần, Đảng đã thực sự đưa văn hóa trở thành một mặt trận. Đề cương viết: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”1.
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã phân tích một cách súc tích và đầy đủ về chính sách văn hóa của cả Pháp và Nhật; đồng thời, cảnh báo những tác hại của chính sách văn hóa ấy đối với nền văn hóa Việt Nam. Đề cương nhấn mạnh đến yêu cầu làm cách mạng văn hóa và tính triệt để của cách mạng văn hóa: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”2. Điểm sáng nổi bật của Đề cương về văn hóa Việt Nam là chỉ ra ba nguyên tắc văn hóa, đó là: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Đề cương giải thích về ba nguyên tắc ấy như sau:
 a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)”3.
Đơn giản, ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu và dễ nhớ - đó là tất cả những gì có thể khái quát về con đường, phương pháp xây dựng nền văn hóa mới - một nền văn hóa hướng về dân tộc, vì dân tộc và phục vụ dân tộc trên tinh thần

_____________

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13, 21, 23-24.
chống lại cái lạc hậu, cái lỗi thời, cổ súy cho cái tiến bộ, cho tính khoa học gắn với việc cổ vũ, khích lệ quảng đại quần chúng nhân dân tham gia vào tiến trình văn hóa và thụ hưởng các giá trị văn hóa một cách lành mạnh.
Như vậy, ba nguyên tắc xây dựng nền văn hóa Việt Nam nêu trên có mối quan hệ mật thiết không tách rời, phản ánh đúng nhất thực trạng và nhu cầu bức thiết của cuộc vận động văn hóa Việt Nam đương đại. Đồng thời đây cũng là khẩu hiệu hành động, kêu gọi đội ngũ trí thức tập hợp lực lượng, xây dựng một nền văn hóa mới cho tương lai của dân tộc.
Trong phần cuối của Đề cương, Đảng đề ra nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa Đông Dương và nhất là những nhà văn hóa Việt Nam là: phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, lạc hậu, thần bí, duy tâm: “a) Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á, có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đềcác (Descartes), Bécsông (Bergson), Cǎng (Kant), Nítsơ (Niesche), v.v. ; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. b) Tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v.) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”1.
Tóm lại, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã chỉ rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn tàn ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp trong việc đàn áp và bức tử nền văn hóa nước ta. Trên cơ sở đó, cảnh báo nguy cơ có thể bị diệt vong đối với một dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, có độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ dưới ách thống trị của Pháp - Nhật. Bởi vậy, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của các nhà văn hóa cách mạng ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lúc bấy giờ là phải đập tan mọi âm mưu, chính sách thâm độc về văn hóa của Pháp, Nhật và bè lũ tay sai, giành độc lập cho Tổ quốc và bảo vệ cho được các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam. Đề cương về văn hóa Việt Nam trở thành bản cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng, đồng thời là bản tuyên ngôn đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương về vấn đề văn hóa, đã thể hiện rất cơ bản đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam và những giá trị lịch sử văn hóa trường tồn của dân tộc.

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.27-28.
3. Văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước góp phần đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công
Đường lối văn hóa được thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đã định hướng về tư tưởng, nhận thức, phương châm, nguyên tắc hoạt động văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam. Đặc biệt, Đề cương đã lôi kéo, thuyết phục và tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức, nhà hoạt động văn hóa yêu nước Việt Nam vào Hội Văn hóa cứu quốc, một thành viên của Mặt trận Việt Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền cách mạng. Vì vậy, Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng nhấn mạnh: “Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”1.
Đường lối văn hóa của Đảng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được đông đảo các nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước tin tưởng, nhiệt tình ủng hộ. Đặc biệt, tháng 4/1943, Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập, hoạt động bên cạnh các tổ chức cứu quốc khác của Mặt trận Việt Minh. Ngay sau khi thành lập, Hội đã xây dựng các nguyên tắc hướng dẫn sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, đề xuất những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài cho các nhà văn hóa Việt Nam, trong đó hai nhiệm vụ chính là: gạt bỏ những tiêu cực văn hóa phong kiến lạc hậu trong văn hóa Việt Nam, tuy nhiên loại bỏ không phải là xóa sạch những yếu tố văn hóa Việt Nam mà là phát huy những yếu tố văn hóa truyền thống tích cực, sử dụng vào mục đích giữ nước, chỉ loại bỏ những yếu tố tiêu cực. Đánh đổ sự kìm kẹp và đầu độc về văn hóa của thực dân Pháp, nhưng cũng phải biết thu nhận những yếu tố tiến bộ, trong đó cụ thể trước mắt là đấu tranh xóa bỏ chính sách văn hóa phản động, soi sáng các tầng lớp trí thức, văn nhân, nghệ sĩ và quần chúng nhân dân; bắt tay vào xây dựng nền văn hóa mới phục vụ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Hội Văn hóa cứu quốc đã tập hợp và xây dựng một lực lượng hùng hậu văn nghệ sĩ, trí thức đi theo cách mạng và tổ chức nhiều cuộc vận động xây dựng nền văn hóa mới - văn hóa cách mạng. Trên sách, báo, các phương tiện

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Sđd, tr.21-22.
thông tin đại chúng của Đảng lúc bấy giờ đều nhất quán khẳng định giá trị tư tưởng, quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” của Đề cương về văn hóa Việt Nam, quyết tâm thực hiện và đưa vào đời sống quan điểm, tư tưởng, mục tiêu và ba nguyên tắc “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” của nền văn hóa Việt Nam mà Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ ra. Đồng thời, làm cho nền văn hóa mới xâm nhập ngày càng sâu rộng vào quần chúng nhân dân và phong trào cách mạng đang phát triển sâu rộng.
Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời đã giải phóng được tâm trạng chung của cả một thế hệ đi tìm đường. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết: “Năm 1943 khi anh Vũ Quốc Uy đến tìm tôi để giới thiệu với anh Lê Quang Đạo... Anh Lê Quang Đạo đã gặp tôi để nói về bản Đề cương văn hóa của Đảng và tổ chức Văn hóa cứu quốc... Bản Đề cương đã cho ta thấy vận mệnh và tương lai của văn hóa dân tộc gắn liền với vận mệnh của dân tộc ta trong một số cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc. Giữa những ngày đen tối dưới sự thống trị của bọn phátxít Pháp - Nhật, tôi đã thấy rằng lẽ phải là ở phía cách mạng và cũng như nhiều anh em trong Hội Văn hóa cứu quốc, tôi tin chắc chắn là cách mạng sắp đến”1.
Ở thời điểm đó, các nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận cũng đang băn khoăn tìm một con đường sống. Khi trực tiếp tìm hiểu Đề cương về văn hóa Việt Nam, họ đã tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và đã nhanh chóng ý hợp tâm đầu trong tâm nguyện đấu tranh để bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Có thể khẳng định rằng: Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng đã đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng của giới trí thức, văn nghệ sĩ lúc bấy giờ, nhằm thực hiện một mệnh lệnh chiến đấu chung nhất: Vận mệnh của văn hóa gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Muốn cứu văn hóa dân tộc trước tiên phải tham gia giải phóng dân tộc. Đề cương về văn hóa Việt Nam đã thể hiện sức sống mãnh liệt. Đó là sức sống của tư tưởng cách mạng. Vừa mới ra đời, chỉ trong một thời gian ngắn, một tổ chức văn hóa cách mạng đầu tiên của Đảng đã thu hút đông đảo những tên tuổi sáng giá lúc bấy giờ: Ở Hải Phòng là Văn Cao, Nguyên Hồng, Đỗ Nhuận, Lưu Văn Lợi, Hoàng Quý, Nguyễn Công Mỹ; ở Hà Nội là Đặng Thai Mai, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng,

_____________

1. Hữu Thỉnh: “Từ Hội Văn hóa cứu quốc đầu tiên ấy”, http://Baomoi.com.vn, ngày 21/9/2013.
Nam Cao, Học Phi, Như Phong, Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Xuân Diệu, Huy Cận, Trần Huyền Trân...
Hội Văn hóa cứu quốc là một tổ chức hoạt động rất chặt chẽ. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiền Phong. Phương châm của Hội là lợi dụng triệt để các kẽ hở trong mạng lưới kiểm duyệt của địch để tuyên truyền cho cách mạng. Dưới ánh sáng của Đề cương về văn hóa Việt Nam, các văn nghệ sĩ, trí thức cho ra đời hàng loạt tác phẩm: Nguyễn Huy Tưởng viết Vũ Như Tô - một tác phẩm quan trọng nhất của đời ông và cũng là một trong những kịch bản sân khấu xuất sắc nhất của chính kịch hiện đại. Nam Cao viết Sống mòn, Nguyên Hồng viết truyện ngắn Cuộc sống, Miếng bánh, Thâm Tâm viết Tống biệt hành... Đi theo, dấn thân trong bão táp cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa; trực tiếp cầm bút và cầm súng chiến đấu, các văn nghệ sĩ, trí thức đương thời thật sự đã trở thành những dũng sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, lý luận của Đảng. Họ đã góp phần to lớn vào việc đưa ánh sáng của Đảng đến với đồng bào, chiến sĩ, củng cố niềm tin chiến thắng cho họ. Đồng thời, thổi luồng không khí cách mạng vào đời sống xã hội Việt Nam. Mặt khác, những cơ hội trải nghiệm thực tiễn quý báu của cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng góp phần để các nhà văn thai nghén ra những tác phẩm sử thi tầm cỡ về cuộc Cách mạng Tháng Tám - một trong ba sự kiện vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là các tác phẩm Tranh tối tranh sángHỗn canh hỗn cư của Nguyễn Công Hoan; Mười năm của Tô Hoài và Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi.
Tóm lại, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã trở thành ngọn cờ tập hợp văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà văn hóa đi theo tiếng gọi của Đảng, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
*
*     *
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước những thời cơ, thách thức, khó khăn mà toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cần phải giải quyết. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, văn nghệ cách mạng; coi sự nghiệp phát triển văn hóa, văn nghệ là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
 
80 NĂM “ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM”:
TÍNH BỀN VỮNG VÀ SỐNG ĐỘNG CỦA MỘT TRIẾT LÝ VĂN HÓA
TS. LÊ THỊ MINH THẢO*
Đ
 
ề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên), văn kiện được xem như cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa và vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, thực tiễn sau 80 năm ra đời. Đề cương văn hóa đã đem lại một luồng gió mới cho văn hóa Việt Nam lúc bấy giờ cũng như định hướng cho sự phát triển nền văn hóa sau này:
1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” - một dấu son của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
Bản đề cương về văn hóa Việt Nam gồm năm phần: Phần I: “Cách đặt vấn đề”
Phần II: “Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam”
Phần III: “Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp” Phần IV: “Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam” và
Phần V: “Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa mácxít Việt Nam”.
Những quan điểm cơ bản của cả năm phần có sức thuyết phục sâu sắc và là ngọn cờ tập hợp đông đảo trí thức vào cuộc vận động văn hóa, vào cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng văn hóa, nâng cao dân trí của dân tộc. Có thể nói,
Đề cương văn hóa Việt Nam là văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng về công

_____________

* Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
tác, văn hóa, văn nghệ, phân tích đúng đắn tình hình đời sống văn hóa dưới ách Pháp - Nhật, vạch ra đường lối văn hóa cách mạng và những nhiệm vụ trước mắt, tiến tới xây dựng nền văn hóa dân tộc, nhân dân. Lần đầu tiên Đảng Cộng sản đưa ra một Cương lĩnh dù đúng như tên gọi đây là một bản đề cương phác thảo trong điều kiện một Đảng chính trị đang hoạt động bí mật nên mới chỉ dừng lại ở những định hướng lớn, mang tính chất nền tảng cho nền văn hóa cách mạng Việt Nam. Nhưng những nội dung, tính chất, tổ chức, nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong và sau cách mạng giải phóng dân tộc theo xu hướng hoàn toàn mới.
Tinh thần cứu quốc của Cương lĩnh văn hóa đầy tính thuyết phục và chiến đấu đã trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ cũng như người dân đương thời về lòng yêu nước và khát vọng chiến đấu cho một nền độc lập nước nhà, cho sự nghiệp phá vỡ xiềng xích văn hóa phản cách mạng, bảo vệ văn hóa dân tộc, đồng thời chung tay xây dựng một nền văn hóa mới khi mà cách mạng dân chủ, dân chủ lúc bấy giờ chưa thành công.
Đề cương xuất hiện trong hoàn cảnh trước thềm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giống như sợi chỉ đỏ định hướng để mọi hoạt động không bị chệch hướng và bồi đắp thêm văn hóa nước nhà. Với tư tưởng biện chứng, đề cương xác định, xây dựng văn hóa trên cơ sở nền tảng kinh tế xã hội, chế độ kinh tế của xã hội ấy quyết định toàn bộ nền văn hóa. Nhưng văn hóa không phải ảnh hưởng thụ động, mà có mối quan hệ với kinh tế, chính trị, là một trong ba mặt trận mà ở đó người cộng sản phải hành động. Đảng nhấn mạnh, cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng lãnh đạo trên cơ sở chỉ rõ tính chất văn hóa Việt Nam trong quá khứ và hiện tại (1943). Đề cương xác định nền văn hóa mới của Việt Nam có hai tính chất dân tộc và dân chủ, khẳng định lúc bấy giờ nó là cách mạng và tiến bộ.
Như vậy, trong bối cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, khi nước nhà chìm đắm trong bóng đêm nô lệ, đời sống văn hóa ngột ngạt dưới chính sách hà khắc, thâm độc của thực dân, phát xít, nhưng với ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc, thực tiễn đời sống cách mạng trong cuộc đấu tranh cách mạng dân tộc, dân chủ, đề cương văn hóa Việt Nam với tư duy đầy minh triết, tiếp cận vấn đề thực tiễn và khoa học đã “soi đường cho quốc dân đi”.
Đảng đã nhận thức rõ yêu cầu cấp bách xây dựng nền văn hóa mới cùng hướng tới mục tiêu là độc lập dân tộc và cao hơn thế nữa là xây dựng nền văn hóa do con người và vì con người. Chính tư tưởng khoa học và cách mạng đó đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia góp phần thắng lợi cách mạng dân tộc tháng 8/1945 và tạo cơ sở lý luận cho nền văn hóa kháng chiến kiến quốc sau này và là định hướng đúng đắn cho cách mạng văn hóa Việt Nam hôm nay, xây dựng nền văn hóa mới do con người và vì con người.
2. Ba nguyên tắc của nền văn hóa Việt Nam mới: giá trị của một triết lý văn hóa hôm qua và hôm nay
80 năm qua, lịch sử cách mạng Việt Nam đã trải qua những giai đoạn khác nhau, nhưng định hướng của đề cương văn hóa Việt Nam dù được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể nhưng nó vẫn giữ được tính chất phương pháp luận trong cách mạng văn hóa Việt Nam. Tinh thần khai phóng ấy được kế thừa, phát triển cho văn hóa Việt Nam sau này. Ba nguyên tắc bao trùm nền văn hóa mới: dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Do tính chất cứu quốc của của bản Đề cương như một chương trình, cương lĩnh hành động của Đảng nên ba nguyên tắc này được giải thích ngắn ngọn, súc tích, là những định hướng chứ chưa phải là nội dung cụ thể của nền văn hóa mới. Do đó không thể giáo điều trong việc đánh giá Đề cương văn hóa Việt Nam phải dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể của yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1981 nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời, Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ: “Đề cương văn hóa Việt Nam không dài, có nhiều hạn chế, vì trong hoàn cảnh bí mật, Trung ương chưa đủ điều kiện nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến cách mạng văn hóa Việt Nam... Nhưng đề cương văn hóa đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện lúc đó của cách mạng Việt Nam”1.
Dân tộc hóa chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Trong bản đề cương đã nhấn mạnh những thủ đoạn phát xít trói buộc văn hóa và giết chết văn hóa Việt Nam. Chính sách văn hóa Pháp: Đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân tộc chống phát xít;

_____________

1. Bốn mươi năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.
nhồi sọ văn hóa ngu dân, mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa,... Chính sách văn hóa Nhật: tuyền truyền chủ nghĩa Đại Đông Á, gây ra một quan niệm cho người Nhật là cứu tinh của giống da vàng và văn hóa Nhật Bản chiếu rọi những tia sáng văn minh tiến bộ cho các giống nòi Đại Đông Á.
Đại chúng hóa là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng, con người phải là trung tâm, là chủ thể của các hoạt động văn hóa. Nền văn hóa Việt Nam mới hướng mọi sáng tạo nghệ thuật và hoạt động văn hóa đưa sát với đời sống thường ngày và phục vụ quảng đại quần chúng. Văn hóa không còn là đặc quyền, đặc lợi của số ít người mà là tài sản chung của nhân dân, dân tộc, góp phần vào văn hóa của nhân loại. Có như vậy, vũ khí sắc bén của văn hóa mới có thể trở thành mặt trận chống thù trong, giặc ngoài. Đại chúng hóa cũng được Đảng ta không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Đại chúng hóa là nhân dân, một nền văn hóa có tính chất dân chủ, nhân dân sáng tạo và thụ hưởng, nền văn hóa của dân, do dân và vì dân.
Khoa học hóa là chống lại tất cả những cái làm cho văn hóa trái với khoa học phản tiến bộ, biết bảo tồn, chắt lọc những nét đẹp truyền thống dân tộc, đồng thời phải chống những cái cũ kĩ, lạc hậu, dị đoan. Đây là nguyên tắc cực kỳ cần thiết và chính xác, góp phần phê phán những tư tưởng, học thuyết không có lợi cho cách mạng, chiết trung, cải lương, bi quan,... bảo vệ sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hiện nay, tính chất khoa học được phát triển thành tính chất tiên tiến của nền văn hóa, chỉ sự tiến bộ dựa trên thế giới quan khoa học và hệ tư tưởng tiên tiến.
Trong ba phương châm, vấn đề dân tộc hóa được đưa lên đầu tiên, đó là nhiệm vụ hàng đầu của văn hóa, biến văn hóa dân tộc trở thành sức mạnh nội sinh to lớn để chống văn hóa “xâm lăng” từ bên ngoài cũng như tư tưởng ấu trĩ, lạc hậu từ bên trong. Nền văn hóa Việt Nam được dân tộc hóa sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần nhằm chấn hưng dân tộc, chống tư tưởng tự ti dân tộc, không ngừng phát huy chủ nghĩa yêu nước, khí phách tự lực tự cường của dân tộc xuyên suốt dọc chiều dài hơn 2000 năm của lịch sử dựng nước và giữ nước.
Có thể nói ba nguyên tắc trên thấm đẫm tinh thần cứu quốc, hành động là sự trả lời đúng đắn và kịp thời các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm lịch sử trọng đại của dân tộc. Tinh thần ấy xuyên suốt những năm tháng kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc, chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ xây dựng đất nước và hội nhập. Nó được kế thừa, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhưng đường hướng thì nhất quán cho đến bây giờ. Những định hướng cơ bản đó hợp thành cơ sở để xây dựng quá trình đổi mới văn hóa, làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng hiện đại, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mang đậm triết lý sống của dân tộc Việt Nam, yêu nước thương nòi, nhân nghĩa, thủy chung,... Thực tế đã chứng minh, ba nguyên tắc nêu trên của Đề cương văn hóa nêu trên có tác dụng to lớn biến nền văn hóa Việt Nam từ một nền văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa thực dân, phong kiến, nô dịch trở thành nền văn hóa độc lập, tự chủ, vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc văn hóa sau này.
3. Tính bền vững và sống động của Đề cương văn hóa 1943 - Nhìn từ văn hóa Việt Nam hôm nay
Văn hóa với tư cách là một hệ thống giá trị được hình thành thông qua hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm văn hóa hoặc vật chất hoặc tinh thần của cộng đồng. Được lựa chọn và thanh lọc qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau tạo nên tính thống nhất của toàn xã hội. Văn hóa là nhân tố quan trọng có tác dụng định hướng hành vi cá nhân và làm nền tảng cho xã hội tồn tại và phát triển. Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 được ví như bản đầu tiên của Đảng về văn hóa, có ý nghĩa khai sáng và mở đường cho văn hóa Việt Nam phát triển.
Ngày hôm qua, từ việc xác định: phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cải tạo xã hội, cách mạng văn hóa Việt Nam phải dựa vào cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện phát triển, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị”,... “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” tới việc khẳng định văn hóa nghệ thuật là một mặt trận”, anh chị em văn nghệ sĩ là những chiến sĩ mặt trận đó” tiếp đến là phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe” “Tiếng hát át tiếng bom” đã hiệu triệu hàng triệu trái tim tự nguyện “là người tôi sẽ chết cho quê hương”. Đã hình thành nên một nền văn hóa cách mạng đáng tự hào, trở thành tấm gương tiêu biểu cho cuộc đấu tranh cách mạng toàn thế giới
Ngày hôm nay, đất nước trên đà phát triển của công cuộc đổi mới và hội nhập, những định hướng đề cương văn hóa Việt Nam đã mang nội hàm và sức sống mới. 80 năm nhiều tư tưởng của Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) đã được Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết chứa đựng nhiều giá trị nhân văn và khoa học đề cập đến văn hóa là những bổ sung, cụ thể của đường hướng được vạch ra từ “đêm trước” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, là điểm mở đầu cho nền văn hóa mới. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng một nền văn hóa tư tưởng, đậm đà bản sắc dân tộc chính là sự kế thừa gần gũi nhất của đề cương, khi mà tiên tiến thể hiện ở nguyên tắc khoa học, đậm đà bản sắc dân tộc thể hiện ở tính nguyên tắc dân tộc trong Đề cương.
Xây dựng và phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa vì xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực cho sự phát triển kinh tế. Tinh thần của Đề cương văn hóa lại được trở lại trong bối cảnh lịch sử mới. Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2004) đã xác lập vị trí văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là chen chốt với không ngừng nâng cao văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”1.
Các giá trị dân tộc, dân chủ, khoa học và nhân văn được có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau trở thành đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam trở thành nguồn lực chấn hưng dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phồn vinh, hùng cường của dân tộc: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người

_____________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.63, tr.390.
là quan trọng nhất”1. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW (năm 2014) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” trong đó nhấn mạnh mối quan hệ giữa xây dựng, phát triển văn hóa, xây dựng con người là vị trí trung tâm của phát triển văn hóa, từng bước trở thành một trong những nguồn lực của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập quốc tế,... Nếu như mọi giá trị văn hóa được thấm sâu vào toàn bộ đời sống con người, thẩm thấu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì đó chính là nguồn sức mạnh đặc biệt thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước. GS.TS. Hoàng Chí Bảo nhận định: “Mọi thành quả của đổi mới đều thể hiện giá trị văn hóa và văn hóa thực sự là nhân tố nội sinh của phát triển, là động lực sâu xa của phát triển. Mọi giá trị văn hóa đều quy tụ về giá trị con người, giá trị cao nhất, giá trị của giá trị”2.
Văn hóa Việt Nam hiện nay, ở tất cả các dạng hoạt động và với tất cả các loại hình của nó, đều có những thay đổi tích cực. Văn hóa truyền thống được coi trọng, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được đánh giá theo chuẩn quốc tế, nhiều di sản văn hóa Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Các hoạt động văn hóa được hiện đại hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa được mở rộng, văn hóa ứng xử, văn hóa nội sinh gần gũi hơn với khu vực và thế giới. Đời sống văn hóa của nhân dân được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Ở khía cạnh loại hình thuộc lĩnh vực hoạt động văn hóa, Việt Nam cũng thu hẹp dần khoảng cách với các quốc gia phát triển như văn hóa thời trang, văn hóa du lịch,... Bằng cách thức độc đáo của “sức mạnh mềm” văn hóa đã ngày càng góp phần làm sâu sắc thêm ý thức dân tộc - quốc gia, khẳng định giá trị thiêng liêng của dân tộc: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của con người, của xã hội là cái đóng vai trò thiết yếu không thể thiếu trong sự phát triển của con người, làm cho con người phát triển toàn diện, trở nên phong phú hơn về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, mang lại cho con người nhân cách cao đẹp, giúp con người thực hiện

_____________

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.34.
  2. Lời nói đầu trong Hội thảo “Văn hóa Việt Nam với sự phát triển đất nước”, Nxb. Lao động - xã hội, 2019.
được khát vọng ngàn đời của mình về chân, thiện, mỹ. Theo đó văn hóa là yếu tố nội sinh - yếu tố làm chất lượng con người ngày càng hoàn thiện, khả năng hoạt động sáng tạo của con người ngày một nâng cao, phương thức ứng xử giữa người với người ngày càng cao đẹp1. Sức mạnh nội sinh văn hóa của cá nhân, của cộng đồng người, của cả dân tộc sẽ là lăng kính đê tiếp nhận ngoại sinh có chọn lọc, tích cực, phát triển chứ không phải là lấn át nội sinh. Kết hợp truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là phương thức, là con đường để các giá trị văn hóa mang sức mạnh nội sinh vào trong phát triển, hiện đại hóa đất nước. Tính thời sự của đề cương vẫn luôn khẳng định giá trị trong hơi thở của cuộc sống hôm nay, tính dân tộc của văn hóa luôn được khẳng định, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo nên một bản lĩnh văn hóa mạnh để phát triển thông qua hội nhập, không rơi vào tình trạng phải nhạt những giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Trở lại với Đề cương văn hóa Việt Nam, đây là Văn kiện đầu tiên có tính chất vạch thời đại, đặt nền móng lý luận cho công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Đề cương trình bày rõ những quan điểm cơ bản về văn hóa, về vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc, và sự tất yếu cách mạng văn hóa do Đảng lãnh đạo và định hướng nội dung xây dựng nền văn hóa trên cơ sở ba nguyên tắc: dân tộc, đại chúng và khoa học. Tám thập kỷ trôi qua nhưng định hướng chung của Đề cương vẫn là tinh thần xuyên suốt các Văn kiện của Đảng sau này về văn hóa, góp phần dẫn dắt nền văn hóa Việt Nam trên một tầm cao mới vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

_____________

1. Xem Đặng Hữu Toàn: “Phát triển văn hóa - Nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay”, in trong Văn hóa với động lực của sự nghiệp đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.307.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943 -
NGỌN ĐUỐC LÝ LUẬN CÁCH MẠNG SOI ĐƯỜNG CHO DÂN TỘC
PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG*
“Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - khởi nguồn lý luận về cách mạng văn hóa của Đảng
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước lầm than nô lệ dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp, phát xít Nhật và bọn phong kiến tay sai, nền văn hóa Việt Nam bị biến đổi, lai căng, suy đồi bởi chính sách nô dịch văn hóa thâm hiểm của những kẻ xâm lăng. Không ít trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa và công chúng ở thành thị tại thời điểm đã rơi vào tình trạng tinh thần hoang mang, dao động và lạc lối về tư tưởng: người thì vùi mình vào những thói quen hưởng thụ, ăn chơi xa xỉ, trụy lạc nhà thổ, nhà xăm và một số tệ nạn xã hội cổ hủ như mê tín dị đoan, nghiện rượu cồn, thuốc phiện; kẻ thì bế tắc, bi quan, trốn tránh cuộc đời, chui vào “tháp ngà” nghệ thuật để tiêu khiển theo lối tư duy “nghệ thuật vị nghệ thuật” duy mỹ cực đoan và chủ nghĩa cá nhân đầy ảo tưởng, ảo giác. Đa số người dân trên phạm vi cả nước đều không biết chữ và lạc hậu về nhận thức tư tưởng, nguyên do là bởi chính sách ngu dân, nô dịch văn hóa của thực dân, phát xít và bọn phong kiến bán nước.
Để dễ bề cai trị, thẳng tay áp bức bóc lột, ngăn cản nhân dân ta đoàn kết, chế độ thuộc địa đã chia nước ta thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ. Thảm họa khôn lường của dân tộc là nhân dân khắp nơi đều bị

_____________

* Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
“bần cùng hóa”, “lưu manh hóa”, thoái hóa, u mê, lạc hậu, không nhận thấy được hết bộ mặt độc ác, nham hiểm của kẻ thù ngoại bang và bọn bán nước cầu vinh.
Trong bối cảnh nước sôi lửa bỏng, vận mệnh của dân tộc bị đe dọa, Đảng ta đã gương cao ngọn đuốc lý luận cách mạng sáng ngời để giác ngộ đông đảo quần chúng nhân dân, các nhà văn hóa, trí thức văn nghệ sĩ: ngọn đuốc rực rỡ ánh sáng cách mạng đó chính là Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.
Vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã thể hiện rõ quan điểm lý luận khoa học mácxít về văn hóa và các vấn đề cách mạng văn hóa.
Lần đầu tiên Đảng ta đã cắt nghĩa rất khái quát và có chiều sâu lý luận và dễ hiểu về văn hóa: “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Văn hóa được hiểu là một lĩnh vực thượng tầng kiến trúc liên quan chặt chẽ với hạ tầng cơ sở. Từ hệ thống điểm nhìn này, có thể nhận thức sâu sắc về cơ cấu của một nền văn hóa và tìm ra những vấn đề mang tính quy luật: văn hóa luôn luôn vận động và phát triển trong quan hệ biện chứng với kinh tế và chính trị. Có thể nói, đây chính là quan điểm lý luận rất mới có sức thu hút, hấp dẫn trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa lúc bấy giờ. Và cho đến ngày nay, quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị thời sự: văn hóa luôn phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế - cơ sở hạ tầng của xã hội.
Đề cương về văn hóa Việt Nam chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, tuyên ngôn chính thức của Đảng về văn hóa trên diễn đàn tư tưởng của dân tộc, thể hiện lý tưởng cách mạng chân chính của Đảng khát vọng xây dựng, phát triển một nền văn hóa cách mạng mới cho dân tộc ta theo ba nguyên tắc của cuộc vận động lớn là “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa” và “khoa học hóa”.
 Tư tưởng về văn hóa của Đảng trong Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được những người cộng sản kiên trung, những chiến sĩ cách mạng âm thầm hoạt động bí mật tuyên truyền trong nhân dân, đặc biệt là tuyên truyền giác ngộ đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người yêu nước, yêu dân tộc để tập hợp họ lại trong Hội Văn hóa cứu quốc thành lập tháng 4/1943 (tức là sau khi bản Đề cương ra đời khoảng hai tháng). Ngọn đuốc lý luận cách mạng văn hóa của Đảng đã soi sáng tâm hồn, trí tuệ nhận thức của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa lúc bấy giờ quyết tâm đi theo Đảng, bắt đầu làm nên những sáng tác mới theo tinh thần cách mạng, hiệu triệu quảng đại quần chúng đẩy mạnh cao trào chống Pháp, kháng Nhật, phản đế, phản phong, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc.
  1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - bản cáo trạng về tội ác của giặc ngoại xâm và phong kiến tay sai âm mưu “trói buộc” và “giết chết văn hóa Việt Nam”
Trong suốt 80 năm xâm lược nước ta, thực dân Pháp và sau này là phát xít Nhật luôn luôn tìm cách thực hiện âm mưu làm suy yếu văn hóa dân tộc ta, hủy diệt nòi giống dân ta, hòng đặt ách cai trị lâu dài ở Việt Nam. Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã trực tiếp vạch trần các thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, nêu rõ việc Pháp và Nhật đã dùng thủ đoạn, âm mưu “trói buộc văn hóa và giết chết văn hóa Việt Nam”.
Trước hết là thực dân Pháp đã thi hành các chính sách văn hóa có lợi cho chúng với mục đích “... đàn áp các nhà văn hóa cách mạng dân chủ chống phát xít; ra tài liệu tổ chức các cơ quan và các đoàn thể văn hóa để nhồi sọ; kiểm duyệt rất ngặt những tài liệu văn hóa; mua chuộc và hăm doạ các nhà văn hóa; mật thiết liên lạc với tôn giáo để truyền bá văn hóa trung cổ, văn hóa ngu dân, - tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa ái quốc mù quáng và hẹp hòi (chauvinisme). Làm ra vẻ săn sóc đến trí dục, thể dục và đức dục cho dân”. Trong những năm 40 của thế kỷ XX, phát xít Nhật đã vào Đông Dương, tìm mọi cách “hất cẳng” Pháp, ra vẻ “đồng cảm” với người da vàng, “tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á”, phô trương và giới thiệu rộng rãi về văn hóa Nhật Bản, nhưng bên trong chúng vẫn ngấm ngầm “đàn áp các nhà văn chống Nhật và mua chuộc các nhà văn có tài” để tìm cách hủy hoại văn hóa của dân tộc ta. Với cách lập luận ngắn ngọn, đanh thép, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã tố cáo âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực ngoại xâm, giác ngộ quần chúng nhân dân nhận rõ bộ mặt giả dối của chúng, từ đó thức tỉnh, đi theo ngọn cờ của Đảng, tham gia cách mạng, đấu tranh lật đổ chế độ thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân, bảo vệ sự sinh tồn và phát triển của nền văn hóa dân tộc.
  1. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - khát vọng xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta xác định rõ mục tiêu lâu dài của cách mạng văn hóa và những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam ngay từ thời điểm Đảng đang hoạt động bí mật. Đề cương chỉ rõ: Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”. Và để đạt được mục tiêu đó, cần phải gấp rút thực hiện “ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này:
  1. Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn
hóa Việt Nam phát triển độc lập).
  1. Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản
lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
  1. Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa
học, phản tiến bộ).
Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”.
Trong hành trình cách mạng Việt Nam, ba nguyên tắc trên vẫn còn nguyên giá trị lý luận sâu sắc, tuy nhiên nội hàm của “Dân tộc hóa”, “Khoa học hóa” và “Đại chúng hóa” cũng đã được Đảng ta phát triển, bổ sung nhiều luận điểm mới cho phù hợp với từng thời kỳ lịch sử của cách mạng để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta với tinh thần “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã quyết tâm xây dựng “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến” (bao hàm những gì tiến bộ nhất - một cách diễn đạt khái quát về đặc trưng “khoa học”) và nền văn hóa đó “đậm đà bản sắc dân tộc”, thể hiện vẻ đẹp của tinh thần dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh: yêu thiên nhiên đất nước, yêu con người, yêu chủ nghĩa xã hội, cần cù, lao động sáng tạo, trọng nghĩa tình, đạo lý, tinh thần nhân văn, nhân đạo cao cả, tinh thần quốc tế trong sáng, tinh thần khoan dung văn hóa... Đó cũng chính là những đặc trưng cụ thể của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943 - bản thiết kế khoa học về cách mạng văn hóa của dân tộc với tầm nhìn chiến lược
Từ góc nhìn lý luận sâu sắc, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nêu ra sự cần thiết cấp bách của nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng văn hóa và cách mạng chính trị của Đảng ta: “... Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; ... Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả...”. Đây là mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ của cách mạng văn hóa và cách mạng chính trị: “Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau)”. Và như vậy: “a) Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển; b) Cách mạng dân tộc giải phóng Việt Nam chỉ có thể trong trường hợp may mắn nhất đưa văn hóa Việt Nam tới trình độ dân chủ và có tính chất dân tộc hoàn toàn độc lập dựng nên một nền văn hóa mới”.
Thực tế cho thấy, đây chính là con đường chiến lược của tiến trình cách mạng Việt Nam đã diễn ra vô cùng sôi động gần một thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đất nước ta thống nhất - tức là cách mạng chính trị đã thành công, thì đó chính là điều kiện quan trọng để chúng ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền văn hóa xã hội chủ nghĩa (tức là tiến tới hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội), xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa, con người sẽ là sức mạnh nội sinh để phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định vai trò lãnh đạo cực kỳ quan trọng của Đảng đối với cách mạng văn hóa, coi đây là điều kiện tiên quyết, tất yếu để cách mạng nước ta đi đến thắng lợi: “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”. Theo đó, để thể hiện vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, trước hết, Đảng ta xác định quan điểm lý luận hết sức mới mẻ lúc bấy giờ: “Văn hóa là một mặt trận”.
Vào thời điểm năm 1943, quan điểm “văn hóa là một mặt trận” có tính thời sự nóng bỏng và cực kỳ mới lạ với không ít các nhà văn hóa, trí thức, văn nghệ sĩ đang bị “ru ngủ” bởi chính sách nô dịch văn hóa của thực dân, phát xít. Lúc bấy giờ, nhiều văn nghệ sĩ, trí thức coi văn hóa, văn nghệ chỉ là “thú tiêu khiển”, nhàn tản, viển vông, phải “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, xa lánh cuộc đời, chui vào “tháp ngà” nghệ thuật để qua tháng, qua ngày, mê mải đi theo các quan điểm “duy mỹ” cực đoan và hậu quả là ngày càng lạc lối buồn thảm với “cái tôi nghệ sĩ” cô đơn, buồn bã, đứng ngoài cuộc đấu tranh của nhân dân chống chủ nghĩa thực dân, phát xít và phong kiến phản động.
Với mục đích cảnh tỉnh, giác ngộ văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà văn hóa và giác ngộ đông đảo quần chúng nhân dân, Đề cương về văn hóa Việt Nam  là tuyên ngôn về cách mạng chính trị và cách mạng văn hóa của Đảng, xác lập vị thế đặc biệt của “mặt trận văn hóa” trong cuộc đấu tranh của cách mạng Việt Nam chống đế quốc, phát xít, thực dân và phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, đem lại tự do cho nhân dân.
Quan điểm “văn hóa là một mặt trận” đã làm bừng tỉnh về mặt nhận thức đối với mọi đảng viên cũng như tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa và quảng đại quần chúng nhân dân ở nước ta lúc đó: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Mục đích trước mắt của cách mạng văn hóa Việt Nam ngay lúc đó là phải “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân”.
Về sau, thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh hùng hồn về sự đúng đắn của quan điểm “văn hóa là một mặt trận”. Văn hóa, văn nghệ cách mạng nước ta đã trở thành một “binh chủng” đặc biệt, sức mạnh của tinh thần vô song của dân tộc ta trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, trong các cuộc đấu tranh xóa bỏ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, lối sống phản khoa học, kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí cùng với sự tha hóa, suy thoái, biến chất về tư tưởng đạo đức lối sống của con người để sự nghiệp cách mạng nước ta hoàn thành công cuộc “cải tạo xã hội” như Đề cương đã từng đề cập tới vấn đề này.
“Nhiệm vụ cần kíp” của các chiến sĩ văn hóa mácxít ở thời điểm năm 1943 đã được Đề cương xác định là “công việc phải làm” và nêu rõ có ba nhiệm vụ quan trọng là: “Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng”; “Tranh đấu về tông phái văn nghệ”; “Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết”. Đây là ba lĩnh vực cơ bản của cuộc đấu tranh trên “mặt trận văn hóa” lúc bấy giờ để làm thất bại mọi âm mưu hủy hoại văn hóa Việt Nam của giặc ngoại xâm và phong kiến tay sai.
Cụ thể như sau: trong lĩnh vực “Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng” thì phải “làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng”; “Tranh đấu về tông phái văn nghệ” thì phải “làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”; “Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết” thì phải: “1. Thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói; 2. Ấn định mẹo văn ta; 3. Cải cách chữ quốc ngữ, v.v.”. Ngày nay, Đảng, Nhà nước và đông đảo quần chúng nhân dân vẫn ngưỡng mộ, tin cậy và coi trọng sứ mệnh thiêng liêng, trách nhiệm xã hội cao cả của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, các chiến sĩ văn hóa trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu, phản tiến bộ... để xây dựng, kiến tạo đời sống văn hóa, chấn hưng, phát triển văn hóa dân tộc trên những tầm cao mới, thiết thực góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới trên đất nước ta.
Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của cách mạng văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”, từ đó đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn. Mục tiêu lâu dài của cách mạng là giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn hẳn chế độ cũ, tức là phải kiên quyết thực hiện “cuộc cải tạo xã hội”, loại bỏ những gì cũ kỹ lạc hậu, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Ngày nay, sự phát triển văn hóa, con người nước ta chính là sự thay đổi căn bản trong công cuộc “cải tạo xã hội”.
Trong điều kiện cả nước hòa bình thống nhất (đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc) cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, cần phải kiên quyết đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội, chống tham nhũng, lãng phí, kiên quyết ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền, chống lại sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang có nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đó chính là công cuộc “cải tạo xã hội” mà Đề cương về văn hóa Việt Nam đã từng đề cập cách đây 80 năm và cũng là yêu cầu của cuộc cách mạng văn hóa hết sức cấp bách trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Ngày nay, chúng ta cần phải thường xuyên quán triệt thực hiện quan điểm “văn hóa là một mặt trận” trong tiến trình cách mạng Việt Nam, để phát huy mạnh mẽ vai trò của các chiến sĩ văn hóa trên mặt trận tư tưởng, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những gì “cũ kỹ hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong bản Di chúc thiêng liêng. Bên cạnh việc phê phán cái xấu, cái tiêu cực, cần phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và lan tỏa vẻ đẹp giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay, để thực hiện “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, phấn đấu hoàn thành công cuộc “cải tạo xã hội” theo tinh thần Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên những tầm cao mới.
*
*       *
Đề cương về văn hóa Việt Nam với tầm vóc của một văn kiện lịch sử đã thể hiện những tuyên ngôn lý luận quan trọng của Đảng về văn hóa và cách mạng văn hóa ra đời cách đây đã 80 năm, nhưng cho đến nay vẫn còn nguyên những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thậm chí vẫn mang tính thời sự cập nhật trong tình hình hiện nay ở nước ta. Đây chính là nền tảng lý luận cơ bản về cách mạng văn hóa để ngày nay Đảng ta tiếp tục kế thừa, vận dụng và phát triển quan điểm, đường lối xây dựng, chấn hưng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam - sức mạnh nội sinh của dân tộc trong hành trình đổi mới, hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam thịnh vượng và hùng cường, đem hạnh phúc đến cho nhân dân.
 
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
GS.TSKH. TRẦN NGỌC THÊM*
I- ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA CỦA MỘT DÂN TỘC YÊU CHUỘNG VĂN HÓA
  1. Trong đời sống của một xã hội, bên cạnh kinh tế (cơ sở hạ tầng) thì văn hóa và chính trị (kiến trúc thượng tầng) đóng một vai trò hết sức quan trọng. Những tư tưởng và hoạt động văn hóa thường hay đi trước để dọn đường và/hoặc đi sau để hoàn tất các cuộc cách mạng xã hội.
Ở Pháp, những tư tưởng văn hóa mới của Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Diderot đã chuẩn bị mảnh đất cho cách mạng Pháp năm 1789 thành công, nhưng đó mới là những tư tưởng cá nhân. Ở Trung Quốc, cuộc vận động Ngũ Tứ (4/5/1919) đã dọn đường cho cách mạng Trung Hoa giương cao ngọn cờ dân chủ, nhưng chất “văn hóa” mà người ta thường nhắc tới của cuộc vận động này chỉ là ở chỗ nó khởi đầu từ giới sinh viên, còn nội dung vẫn là sự phản kháng nhà cầm quyền nói chung. Bài nói chuyện của Mao Trạch Đông ở cuộc tọa đàm văn nghệ Diên An năm 1942 là tiếng nói của lãnh tụ nhưng nó giới hạn ở việc trình bày quan điểm văn nghệ phục vụ công nông nhằm mục đích chỉnh phong chứ chưa phải là một đề cương văn hóa.
Như vậy là có lẽ chưa ở đâu mà trước khi cách mạng thành công, đã có một văn kiện đề cương về văn hóa được công bố rõ ràng như ở Việt Nam.
  1. Sự xuất hiện của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong tiến trình cách mạng của Việt Nam hoàn toàn không mang tính ngẫu nhiên, nó là một tất yếu lịch sử. Có thể thấy có ba lý do:

_____________

* Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
  1. Dân tộc Việt Nam với truyền thống mấy nghìn năm của mình coi trọng các giá trị văn hóa không chỉ theo nghĩa rộng mà còn cả những giá trị văn hóa theo nghĩa hẹp - văn hóa tinh hoa, văn hóa nghệ thuật; coi trọng các giá trị tinh thần hơn vật chất, coi trọng nội dung hơn hình thức, coi trọng đức hơn tài... Đưa ra Đề cương về văn hóa chính là Đảng đã đáp ứng nguyện vọng cháy bỏng này của nhân dân. Hồi ký của những người trong cuộc về những ngày tháng này cho thấy ở khắp những nơi nào có Đề cương đến, mọi người đều say sưa “vùi đầu vào đọc ngay”, “chép lại”, rồi “bàn bạc, truyền tay”... Nếu dân chúng không có nhu cầu và nguyện vọng thiết tha thì dù một đề cương hay mười đề cương đưa ra cũng sẽ bị rơi vào quên lãng.
  2. Chính là nhắm vào những nhu cầu văn hóa của nhân dân mà trong thời kỳ này có cả rừng sách báo, tạp chí... cùng các trào lưu văn hóa, nghệ thuật được bung ra. Thực dân Pháp khuyến khích các xu hướng lãng mạn, “vui vẻ, trẻ trung” trong đời sống văn học, nghệ thuật; cho xuất bản các sách khiêu dâm, kiếm hiệp, thần bí...; cho mở nhiều tiệm hút, tiệm nhảy; tổ chức các nha thông tin, tuyên truyền; ủng hộ các phong trào phục cổ, tôn sùng các tục lệ cũ; đề xướng các phong trào thể dục rầm rộ... Phát xít Nhật thì lập ra Viện văn hóa Nhật, tuyên truyền chủ nghĩa Đại Đông Á... Bởi vậy mà trong bài Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này viết năm 1944, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận định rằng, văn hóa Việt Nam hiện nay - hay nói cho đúng, văn hóa hợp pháp Việt Nam hiện nay - mang ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn: phản dân tộc, phản khoa học, phản đại chúng1. Đưa ra Đề cương về văn hóa chính là Đảng đã trực tiếp tuyên chiến với phản văn hóa nói chung và văn hóa ru ngủ quần chúng của thực dân Pháp và phát xít Nhật nói riêng.
  3. Dân chúng có nhu cầu về văn hóa, văn hóa thực dân và phát xít cần phải được đánh đổ, nhưng nếu Đảng Cộng sản Đông Dương không có những lãnh tụ am hiểu về văn hóa, có tầm nhìn chiến lược về văn hóa thì cũng không thể có được Đề cương về văn hóa Việt Nam. Lại cũng chính là vì dân tộc Việt Nam với truyền thống mấy nghìn năm đã luôn đề cao văn hóa, nên trong lịch sử, các nhà quân sự thiên tài như Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,

_____________

1. Xem Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1985, t.I, tr.29.
Nguyễn Huệ... đều đồng thời là những người uyên thâm về văn hóa. Trong thời hiện đại thì Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... cũng đều là những nhà văn hóa. Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, còn Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... cho dù tham gia lãnh đạo về quân sự hay chính trị, cũng đều có sáng tác văn hóa, quan tâm đến các vấn đề lý luận văn hóa (sử học, văn học, ngôn ngữ học, Việt Nam học...). Trong đó Trường Chinh, trên cương vị Tổng Bí thư Đảng những năm 40 thế kỷ XX, là người có đóng góp trực tiếp nhất cho việc hình thành Đề cương về văn hóa Việt Nam.
3. Theo hồi ký của Học Phi, “anh Trường Chinh rất quan tâm đến văn hóa, văn nghệ ngay từ hồi Mặt trận bình dân”1. Theo Trần Độ thì “từ năm 1941 trở đi, anh Trường Chinh càng chú ý thường xuyên theo dõi và nghiên cứu tình hình các sách báo xuất bản và văn hóa nói chung”2; anh đọc “cuốn sách tiếng Pháp dày cộp nói về nghệ thuật và văn học của Mác và Ăngghen do Jăng Frêvin xếp đặt và đề tựa”3. Hồi ký này còn cho biết: “Theo anh Trường Chinh kể lại thì anh suy nghĩ từ lâu về bản Đề cương văn hóa này... Năm 1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp ở hang Pác Bó, gặp Bác, anh Trường Chinh báo cáo tình hình hoạt động văn hóa. Bác có nhận xét và chỉ thị nhiều ý kiến”. Đầu năm 1943, “tại nhà cụ Bạch ở làng Võng La - ... huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Phú, các anh Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt đã bàn bạc rất nhiều... Sau đó anh Trường Chinh căn cứ vào ý kiến hội nghị đã bàn bạc để khởi thảo Đề cương tại làng Phú Gia - bây giờ thuộc xã Phú Thượng - ngoại thành Hà Nội”4.
II- TÍNH KHOA HỌC VÀ TÍNH CÁCH MẠNG CỦA ĐỀ CƯƠNG
Đọc Đề cương, ta thấy nổi lên hai đặc điểm rõ nhất là tính khoa học và tính cách mạng.
1. Tính khoa học thể hiện trước hết ở bố cục: Đề cương gồm 5 phần có quan hệ với nhau rất chặt chẽ và sắp xếp rất khoa học.

_____________

1, 2, 3, 4. Một chặng đường văn hóa - Tập hồi ức và tư liệu về Đề cương văn hóa của Đảng và đời sống tư tưởng văn nghệ 1943-1948, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr.136, 98, 97, 98-99.
Các phần Các mục
Cách đặt vấn đề Khái niệm văn hóa
Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị Thái độ của Đảng đối với vấn đề văn hóa
Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam Các giai đoạn trong lịch sử văn hóa Việt Nam Tính chất văn hóa Việt Nam hiện tại
Nguy cơ văn hóa
Việt Nam dưới ách Nhật - Pháp
Những thủ đoạn mà phát xít trói buộc và giết chết văn hóa Việt Nam
Hai ức thuyết về tiền đồ văn hóa Việt Nam
Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam Quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa
Mục tiêu của cách mạng văn hóa Đông Dương
Quan hệ giữa cách mạng văn hóa Việt Nam và cách mạng dân tộc giải phóng
Ba nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này
Tính chất của nền văn hóa mới Việt Nam
Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mácxít Đông Dương... Mục đích trước mắt Công việc phải làm
Cách vận động văn hóa
Khởi đầu từ “Cách đặt vấn đề” (A) với 3 nội dung (định nghĩa đối tượng, xác định các mối quan hệ của đối tượng và thái độ của chủ thể đối với đối tượng), Đề cương chuyển sang trình bày về lịch sử vấn đề (B) và hiện trạng của vấn đề (C) từ đó đi tới khả năng giải quyết vấn đề (D) và cuối cùng là các việc phải làm để giải quyết vấn đề (E).
Tính khoa học của Đề cương thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ theo lối cấu trúc móc xích, giàu sức thuyết phục. Ví dụ: c) Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong; d) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mói có hiệu quả. Hoặc: a) Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội; b) Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo; c) Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công...
Tính khoa học của Đề cương cũng thể hiện ở việc đưa ra hai kịch bản (hai ức thuyết) về tiền đồ của văn hóa Việt Nam: “Nền văn hóa phát xít (văn hóa Trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn, thấp kém. Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”1.
Tính khoa học của Đề cương còn thể hiện ở cách diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát: “Thái độ Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa: a-... b-... c-... d-...”, “Quan niệm của người cộng sản về vấn đề cách mạng văn hóa: a-... b-... c-...”; ở cố gắng phân biệt rành mạch các cặp phạm trù đối lập: “Văn hóa Việt Nam hiện nay về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản”2; “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”3.
  1. Tính cách mạng của Đề cương thể hiện ở thái độ dứt khoát, sử dụng những từ ngữ có nghĩa rất rõ ràng: “Phải hoàn thành...”, “Chống mọi ảnh hưởng... / mọi chủ trương...”, “Chống lại tất cả những cái gì...”, “Phải kịch liệt chống...”, “Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á... làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng”, “Tranh đấu về tông phái văn nghệ (...) làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”...
  2. Chính là nhờ tính khoa học và tính cách mạng này mà Đề cương có được sức truyền cảm và sức thu hút lớn, làm cho những người đương thời khi cầm lấy Đề cương đều phải “đọc luôn một mạch”, đọc xong rồi thì “như thấy có lửa cháy bừng bừng trong người”...
III- GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA ĐỀ CƯƠNG
1. Đề cương đề cập đến văn hóa, thực chất là đưa ra cương lĩnh về “cách mạng văn hóa” như một bộ phận của cách mạng xã hội (phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội) bên cạnh cách mạng chính trị (cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị...)). Không

_____________

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.19-20, 14-15, 25-26.
phải ngẫu nhiên mà trong Đề cương, cụm từ “cách mạng văn hóa” được nhắc lại tới bảy lần. Có trường hợp cụm từ “cách mạng văn hóa” còn xuất hiện ngay ở tên gọi của Đề cương. Hồi ký của Vũ Quốc Uy cho biết: “Một buổi tối vào khoảng cuối thu năm 1943, anh Lê Quang Đạo đưa cho tôi một phong bì dán kín... Tôi khóa chặt cửa, hồi hộp mở phong bì, và thấy tám trang giấy kẻ ô, đặc sít chữ viết nhỏ... Trên trang đầu đề rõ ràng mấy chữ: “Đề cương về cách mạng văn hóa Việt Nam1.
Do Đề cương có nhiệm vụ lịch sử cụ thể như vậy, cho nên xem xét Đề cương cũng phải đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể ấy.
Khi nêu ra ba nguyên tắc “dân tộc - đại chúng - khoa học”, Đề cương viết rất rõ rằng đó là “Ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này”. Những đặc điểm của văn hóa (hợp pháp) của Việt Nam giai đoạn này đã được Trường Chinh nói rất rõ trong bài “Mấy nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam” viết ngày 23/9/1944: đó là thứ văn hóa vừa lố lăng, lai căng, thiếu tính dân tộc; vừa duy tâm, thần bí, kém cỏi, bị giáo dục theo kiểu nhồi sọ, thiếu óc khoa học; lại vừa chỉ hướng vào tầng lớp quyền quý, xa rời quần chúng2. Bởi vậy mà ba nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa là hoàn toàn thích hợp với tình hình lúc bấy giờ. Nguyễn Khánh Toàn (với bút danh Hồng Lĩnh) bảo vệ ba nguyên tắc này vào năm 1946 với bài viết “Văn học Việt Nam còn nên dựa vào ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học nữa không?” cũng hoàn toàn hợp lý vì sau khi cách mạng vừa mới thành công, tình hình văn hóa chưa được cải thiện gì hơn.
Nhưng đến ngày nay thì đã khác. Văn hóa những năm 1940 mắc căn bệnh “phản đại chúng”, còn ngày nay đã trở thành văn hóa của nhân dân, vì vậy đã mang tính đại chúng rồi. Óc khoa học của dân ta cũng không đến nỗi kém cỏi, vì vậy nguyên tắc khoa học cần được thay bằng yêu cầu hiện đại, tiên tiến. Không phải ngẫu nhiên mà Điều 30 của Hiến pháp năm 1992 nói đến một nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, hiện đại, nhân văn”. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) nói đến “một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

_____________

  1. Một chặng đường văn hóa - Tập hồi ức và tư liệu về Đề cương văn hóa của Đảng và đời sống tư tưởng văn nghệ 1943-1948, Sđd, tr.50.
  2. Xem Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Sđd, t.I, tr.26-31.
sắc dân tộc” càng chính xác hơn nữa, vì văn hóa từ trong bản chất đã mang tính nhân văn rồi.
  1. Cũng phải xem xét đúng như nó đã được trình bày trong Đề cương là chủ trương “tranh đấu về học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đêcáctơ (Descartes), Bécson (Bergson), Căng (Kant), Nítsờ (Nietzsche), v.v., làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng)”. Hiển nhiên là Khổng, Mạnh, Descartes, Kant... đều là những triết gia lớn mà nhiều điều trong tư tưởng của các ông đã được Ph. Ăngghen và sau này là Hồ Chí Minh ca ngợi. Nhưng nếu ta đọc kỹ thì sẽ thấy trong Đề cương, chủ trương “đánh tan những quan niệm sai lầm” nằm trong mục E.II là những “Công việc phải làm” nhằm phục vụ cho “Mục “ (E.I) là “Chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân”. Có mục đích trước mắt ấy là vì tình hình cụ thể lúc bấy giờ thực dân Pháp đang khuyến khích phong trào trở về với tư tưởng Khổng - Mạnh của Trần Trọng Kim, phong trào sùng bái truyện Kiều của Phạm Quỳnh, phong trào chạy theo các tư tưởng bảo thủ, tư tưởng cổ điển và lãng mạn phương Tây của Nguyễn Văn Vĩnh... nhằm đề cao đạo đức phong kiến, đánh lạc hướng trí thức, thanh niên, gián tiếp chống lại các tư tưởng dân chủ và cách mạng. Không phải ngẫu nhiên mà trước đó không lâu, cụ Ngô Đức Kế vừa ở Côn Đảo về đã lập tức lên án phong trào sùng bái truyện Kiều là thủ đoạn mê hoặc thanh niên, Phan Khôi đã mở cuộc bút chiến với Trần Trọng Kim về học thuyết Khổng - Mạnh...
Việc đề cao một chiều, nói rằng từ đó đến nay toàn bộ Đề cương vẫn “giữ nguyên giá trị”, cũng như việc phê phán, coi chủ trương tranh đấu với những quan niệm của triết học Khổng, Mạnh, Descartes, Kant... là “tả khuynh, quá đà” đều là những biểu hiện của việc chưa hiểu đúng chân giá trị lịch sử của Đề cương.
  1. Từ Đề cương, khái niệm “văn hóa” đã trải qua một quá trình đi đến hoàn chỉnh. Đề cương viết: “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” và là một trong ba thành tố, bên cạnh kinh tế và chính trị. Chữ cả ở đây có thể hiểu theo hai cách: cả là đại từ với nghĩa “hết thảy” (cả nước) và cả là trợ từ với nghĩa là bao gồm bổ sung (ngoài A còn cả B). Nếu hiểu theo cách thứ hai thì không rõ phần còn lại của văn hóa có những gì, còn nếu hiểu theo cách thứ nhất thì nội dung của văn hóa lại bị thu hẹp quá. Quan niệm hẹp này có vẻ như được xác nhận khi ta đọc thấy trong bài “Mấy nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam” của Trường Chinh viết năm 1944 có câu: “Những nhà văn ấy phải đấu tranh trên tất cả các mặt trận văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, v.v.”1. Ở đây, văn hóa được dùng với nghĩa còn hẹp hơn nữa, khi nó đứng cạnh không chỉ phong tục, tín ngưỡng mà cả nghệ thuật, ngôn ngữ là những thành tố mà trong Đề cương đã được bao gồm vào văn hóa.
Đến báo cáo của Trường Chinh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai (7/1948) nhan đề Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, nội dung của khái niệm văn hóa mới trở nên phong phú hơn. Lúc này, ông viết: Văn hóa là một vấn đề rất lớn bao gồm cả văn học, nghệ thuật, khoa học, triết học, phong tục, tôn giáo... và chú thích: Đây là nói văn hóa theo nghĩa hẹp, nghĩa thông thường. Nói rộng ra, văn hóa gồm cả văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất. Cách hiểu này đã hoàn toàn phù hợp với các quan niệm khoa học về văn hóa.
  1. Khi đưa ra chủ trương “tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v. làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng)”, Đề cương tuy không tránh khỏi quan niệm chung bấy giờ coi phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là độc tôn, song cũng chính ở chỗ này, Trường Chinh đã có cái nhìn khá sáng suốt khi trong Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, ông lưu ý rằng “thái độ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thái độ khách quan” và giải thích rằng có những sự thật không có lợi cho ta, ví dụ một trận ta thua chăng h̉ ạn, vân hoàn toàn có th̃ ể đưa vào tác phâm, chỉ có ̉ điều là nên tả sao cho người xem nhận thấy các chiến si c̃ ủa ta anh dung hy sinh nh̃ ư thế nào, vì sao ta thua, và trong cái thua ấy, đâu là phần ta thắng... Đây là một gợi ý rất chí lý. Ngoài việc coi chủ nghĩa hiện thực là độc tôn, nếu các văn nghệ sĩ ta không quá dễ dãi với mình, mà bỏ công sức tìm tòi theo hướng Trường Chinh đã gợi ý thì vẫn có thể thu được những sáng tác hiện thực chủ nghĩa có giá trị, chứ không đến nỗi cho ra những sáng tác theo kiểu minh họa, tô hồng...

_____________

1. Trường Chinh: Về văn hóa và nghệ thuật, Sđd, t.I, tr.32.

TỪ NHỮNG NGUYÊN TẮC LỚN CỦA
“ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM” NĂM 1943
NGHĨ VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA MỚI CỦA THỜI ĐẠI
PGS.TS. ĐỖ THỊ THANH THỦY*
Đ
 
ề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện lịch sử, có tác dụng mở đường, khơi nguồn cho những định hướng chính sách đúng đắn về văn hóa Việt Nam. Ba nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam đưa ra về dân tộc, đại chúng, khoa học là những nguyên tắc căn bản hàm chứa những nội dung có giá trị lịch sử và thời đại. Trải qua tám thập kỷ từ khi Đề cương văn hóa ra đời cho đến nay, ba nguyên tắc này vẫn hàm chứa những giá trị cốt lõi nhất định, là nền móng để chúng ta tiếp tục củng cố, cập nhật, soi chiếu vào những vấn đề văn hóa mới của thời đại.
1. Nguyên tắc dân tộc trong “Đề cương về văn hóa Việt Nam” với vấn đề bảo vệ sự đa dạng văn hóa của nhân loại
Trong thời điểm những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX khi vận mệnh dân tộc đang đứng trước nhiều chông gai, thử thách, dưới ách thống trị, đàn áp của thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng chính sách ngu dân, nô dịch hóa vô cùng thâm độc và tàn bạo của chúng, Đảng vẫn đang trong thời kỳ hoạt động bí mật, nhưng bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đã ra đời và thể hiện trí tuệ sáng suốt, nhạy bén của Đảng khi nhận thức vai trò và sức mạnh của “dân tộc hóa” như một nguyên tắc tiên quyết của văn hóa Việt Nam1.

_____________

* Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
1. Xem Trần Đức Hiếu: “Đồng chí Trường Chinh với bản Đề cương về văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2012, tr.59-64.
Khi mặt trận văn hóa, tư tưởng đang diễn biến phức tạp, vận mệnh dân tộc ở tình thế cam go “ngàn cân treo sợi tóc”, nguyên tắc dân tộc hóa của Đảng như một lời hiệu triệu thức tỉnh người dân Việt Nam và những người hoạt động văn nghệ ưu tú của nước ta về những giá trị độc đáo, tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, góp phần định hướng và tập hợp họ, bởi hơn bao giờ hết, tính dân tộc của văn hóa chính là cội nguồn của sức mạnh tự cường, là nguồn lực nội sinh đoàn kết toàn dân. Đặc biệt hơn nữa, bản Đề cương cũng thể hiện nhận thức sáng suốt, linh hoạt của Đảng về tính dân tộc trong mối quan hệ với tính hiện đại và tiên tiến trong văn hóa, với nhận định: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”. Luận điểm này sau đó đã được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong các nghị quyết tiếp theo của Đảng, với nguyên tắc nhất quán trong khẳng định nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa của nhân loại nhưng vẫn kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam1.
Nguyên tắc dân tộc là một nguyên tắc không chỉ có giá trị lịch sử mà còn mang giá trị thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như một xu thế khách quan, tất yếu, vừa mở ra những cơ hội và tạo động lực cho quá trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc, vừa đặt ra những nguy cơ về sự “xâm lăng”, đồng nhất văn hóa, nhận thức về tầm quan trọng của việc giữ gìn tính dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết, bởi đây chính là cội nguồn bảo đảm cho sự đa dạng văn hóa của nhân loại như một giá trị phổ quát. Trong Hội nghị bàn tròn cấp cao do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đồng tổ chức vào ngày 3/9/2002 tại Johannesburg về “Đa dạng văn hóa và đa dạng sinh học cho sự phát triển bền vững” đã nhấn mạnh: Đa dạng văn hóa và đa dạng sinh học đều có ý nghĩa quan trọng như nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của loài người.

_____________

1. Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.92-93.
Sự đa dạng trong con người và sự đa dạng trong tự nhiên là không thể tách rời. “Khoan dung và tôn trọng lẫn nhau đối với sự khác biệt về văn hóa là điều kiện không thể thiếu để tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới và công nhận nhân loại chung của chúng ta”. Đa dạng văn hóa là tài sản chung của các dân tộc và hành tinh của chúng ta vì sự thịnh vượng cho các thế hệ hiện tại và tương lai, là chìa khóa để bảo đảm khả năng phục hồi trong cả hệ thống xã hội và sinh thái.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc trong Công ước UNESCO 2005 về “Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa” thêm một lần nữa đã nhấn mạnh điều này. Trong văn kiện này, UNESCO chú ý đến hàng hóa, dịch vụ và hoạt động văn hóa như là phương tiện của bản sắc, giá trị và ý nghĩa: “Nhận thức rằng đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại, cần được tôn vinh và bảo vệ vì lợi ích của tất cả mọi người,... đa dạng văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các cộng đồng, các dân tộc và các quốc gia,... và sự đa dạng này được thể hiện ở tính độc đáo và đa nguyên về bản sắc và các biểu đạt văn hóa của các dân tộc và các xã hội hình thành nên nhân loại” (Phần mở đầu của Công ước 2005) và: “Đa dạng văn hóa là một tài sản phong phú cho các cá nhân và các xã hội. Việc bảo vệ, phát huy và duy trì đa dạng văn hóa là một yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển bền vững vì lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau (mục 6, Điều 2, Phần I: Các mục tiêu và nguyên tắc chỉ đạo).
Chủ đề của UNESCO về đa dạng văn hóa đã bắt đầu khi Hội thảo thế giới về Chính sách Văn hóa tại thành phố Mexico vào năm 1982, đã tuyên bố rằng mỗi nền văn hóa đại diện cho một hệ thống giá trị độc đáo và không thể thay thế và là phương tiện hiệu quả nhất để thể hiện sự hiện diện của mình trên thế giới. Theo nghĩa này, Tuyên bố Mexico về Chính sách Văn hóa cũng nhận xét rằng bản sắc văn hóa và đa dạng văn hóa là không thể tách rời và việc thừa nhận sự hiện diện của nhiều bản sắc văn hóa ở bất cứ nơi nào có nhiều truyền thống cùng tồn tại sẽ tạo nên bản chất của tính đa nguyên về văn hóa. Vào năm 1982, “sự đa dạng” vẫn chưa trở thành một chủ đề rõ ràng mà mới được đưa vào trong các tuyên bố liên quan, ví dụ như về phát triển, dân chủ và bản sắc văn hóa. Vào năm 1996, Báo cáo “Sự đa dạng sáng tạo của chúng ta” lần đầu tiên xác định rõ ràng về đa dạng văn hóa và đặt nó trong bối cảnh của chính sách văn hóa quốc tế, như một phản hồi chống lại sự đồng nhất hóa do toàn cầu hóa gây ra, được đưa ra trong bối cảnh thập kỷ phát triển văn hóa của Liên hợp quốc (1988-1997). Hội nghị Stockholm về văn hóa và phát triển của UNESCO năm 1998 tiếp tục tạo tiền đề cho sự nhấn mạnh về chủ đề này, đề xuất cách hiểu về “sự đa dạng” giúp tăng cường mối liên kết giữa các vấn đề đa dạng và phát triển, giữa văn hóa và chất lượng kinh tế xã hội của các quốc gia và cộng đồng1.
Trong Tuyên bố Toàn cầu về Đa dạng văn hóa được thông qua tại Kỳ họp thứ 31 của Đại hội đồng của UNESCO PARIS, ngày 2/11/2001 cũng đã nhấn mạnh đa dạng văn hóa chính là “di sản chung của nhân loại”, “cần thiết cho loài người cũng như là sự đa dạng sinh học cần thiết cho tự nhiên” bảo đảm sự tồn tại của nhân loại. Tuyên bố khẳng định rằng tôn trọng sự đa dạng của các nền văn hóa, sự khoan dung, đối thoại và hợp tác, trong bầu không khí tin cậy và hiểu biết lẫn nhau là một trong những bảo đảm tốt nhất cho hòa bình và an ninh quốc tế. Tại Điều 1 về: “Đa dạng văn hóa: di sản chung của nhân loại” đã nêu rõ: “Văn hóa có nhiều hình thức đa dạng theo thời gian và không gian. Sự đa dạng này được thể hiện trong tính độc đáo và đa dạng của bản sắc của các nhóm và các xã hội tạo nên loài người. Là một nguồn trao đổi, đổi mới và sáng tạo, đa dạng văn hóa cần thiết cho loài người cũng như đa dạng sinh học là cần thiết cho tự nhiên. Theo nghĩa này, nó là di sản chung của nhân loại và cần được công nhận và khẳng định vì lợi ích của hiện tại và tương lai các thế hệ”.
Như vậy có thể nói, từ nguyên tắc dân tộc hóa trong văn hóa, một yếu tố cốt lõi tạo ra bản sắc văn hóa dân tộc, cũng là nguồn gốc của đa dạng văn hóa trong tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại đã được Đảng nhận thức từ rất sớm. Tính dân tộc đó như Đảng ta đã chỉ rõ, không phải là bất biến, mà luôn được chắt lọc, chưng cất, tích luỹ trong quá trình đối thoại, giao lưu và tiếp biến với văn hóa nhân loại, góp phần đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu, giúp văn hóa Việt Nam “hoà nhập nhưng không hoà tan”, vừa giữ được bản lĩnh, bản sắc dân tộc, vừa có khả năng thích nghi, tái sáng tạo để phù hợp với yêu cầu

_____________

  1. Xem Globalisation, Culture and Development The UNESCO Convention on CulturalDiversity, Christiaan De Beukelaer, Miikka Pyykkönen và J.P Singh, 2015.
của thời đại trong xu thế toàn cầu. Khái niệm dân tộc hóa khi được mở rộng thành khái niệm đa dạng văn hóa, trong mối tương quan với những vấn đề khác như đa dạng sinh học và phát triển bền vững - thể hiện giá trị khởi nguyên cốt lõi của nguyên tắc dân tộc hóa và cũng đặt ra yêu cầu mở rộng nguyên tắc này trong dòng chảy phát triển của lịch sử loài người cũng như của quốc gia - dân tộc, thể hiện tính biện chứng và tư duy đa chiều để đáp ứng với những vấn đề mới trong bối cảnh hiện nay.
  1. Nguyên tắc đại chúng và những vấn đề đặt ra của thời đại về nâng cao khả năng tiếp cận và sáng tạo của nhân dân, bảo đảm văn hóa như một loại hàng hóa công
Đề cương về văn hóa Việt Nam khẳng định nguyên tắc đại chúng như một trong ba nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam. Đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”. Điều này được diễn giải một cách cụ thể như sau: “Nói cách khác, văn hóa phải hướng về nhân dân, phục vụ nhu cầu và lợi ích của đông đảo nhân dân, từng bước giúp cho nhân dân thực sự trở thành người chủ của văn hóa. Dưới chế độ thực dân phong kiến, văn hóa - nghệ thuật là món ăn tinh thần sang trọng chỉ dành riêng cho một thiểu số “ăn trên ngồi trốc”. Đó là một trong những bất công của xã hội cũ. Giai cấp thống trị thực hiện chính sách “ngu dân nhi trị” nên hơn 90% nhân dân ta còn trong tình trạng mù chữ, thất học, không có điều kiện hưởng thụ văn hóa. Để trả văn hóa về cho nhân dân, Đề cương ra khẩu hiệu “chống nạn mù chữ”... Để thực hiện “đại chúng hóa” đòi hỏi các nhà văn hóa phải rời “tháp ngà” của mình, đi vào cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân dân mới có thể phản ánh được cuộc đời, số phận, những lo âu, khát vọng, tình yêu của họ - những chủ đề và nhân vật chính của nền văn hóa mới”1.
Tính đại chúng là một nguyên tắc thứ ba của văn hóa trong thời điểm lịch sử khi người dân còn trong cảnh lầm than, qua đó làm tròn sứ mệnh cứu nước và xây dựng nền văn hóa mới của nhân dân, phục vụ nhân dân, chứ không

_____________

1. Trần Đức Hiếu: “Đồng chí Trường Chinh với bản Đề cương về văn hóa Việt Nam”, Tlđd, tr.62-63.
còn là của riêng thiểu số hưởng thụ: “Văn hóa được xác định là văn hóa của nhân dân, vì nhân dân. Văn hóa có gần gũi quần chúng, phục vụ đông đảo quần chúng thì mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết đứng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc, giải phóng văn hóa”.
Những nguyên tắc tiên tiến này của Đảng trong bối cảnh thời đại ngày nay vẫn còn mang những giá trị cập nhật phù hợp với những vấn đề của văn hóa và phát triển bền vững. Nhìn ra thế giới, mối quan hệ rõ ràng giữa văn hóa và phát triển đã chính thức được bắt đầu từ Hội thảo thế giới về Chính sách Văn hóa tại thành phố Mexico vào năm 1982, được gọi là Mondiacult 82. Hội nghị có sự tham dự của 960 đại biểu đến từ 126 quốc gia trong tổng số 158 quốc gia thành viên của UNESCO vào thời điểm đó. Tuyên bố Mexico yêu cầu rằng bất kỳ chương trình phát triển nào cũng cần phải tính đến các cấu trúc văn hóa xã hội để có thể thành công (Điều 16) và mọi sự phát triển vốn chỉ nhấn mạnh đến tiến bộ kinh tế hoặc công nghệ hoàn toàn không phải là tiến bộ (Điều 11), cụ thể như sau: “Văn hóa là mặt cơ bản của quá trình phát triển và góp phần củng cố độc lập, chủ quyền và bản sắc của các quốc gia. Tăng trưởng thường được hình thành theo định lượng mà không tính đến khía cạnh định tính cần thiết của nó, đó là sự thỏa mãn các nguyện vọng văn hóa và tinh thần của con người. Mục tiêu của sự phát triển chân chính là sự hạnh phúc và hoàn thiện liên tục của mỗi cá nhân”.
Đặc biệt, trải qua bốn thập kỷ văn hóa và phát triển, gần đây nhất, tại Hội thảo thế giới về Chính sách Văn hóa năm 2022, việc đề cao một chương trình nghị sự lấy con người làm trung tâm cho các chính sách văn hóa và vấn đề cần xem văn hóa như một lợi ích công cộng toàn cầu lại tiếp tục được nhấn mạnh hơn bao giờ hết. Đồng thuận với điều này, trong Báo cáo toàn cầu của UNESCO được xuất bản bốn năm một lần về: “Tái định hình các chính sách cho sự sáng tạo” (Re|Shaping Policies for Creativity)1, được công bố trong phiên họp thứ 15 của Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng của các biểu hiện văn hóa vào năm 2022, đã nhấn mạnh việc cần thiết phải

_____________

1. https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000380475.
coi văn hóa như là hàng hóa công cộng toàn cầu, qua đó thúc đẩy các hệ sinh thái sáng tạo đóng góp cho một thế giới bền vững đến năm 2030 và xa hơn nữa như khuyến nghị chính sách quan trọng. Điều này là hết sức cần thiết trong bối cảnh tăng trưởng tiêu dùng văn hóa đang được thúc đẩy nhanh chóng, dưới tác động của các ngành công nghiệp truyền thông có tính toàn cầu hóa và việc định vị lại văn hóa như một kinh tế tiêu dùng tư nhân. Theo UNESCO, trong bối cảnh toàn cầu đương đại với nhiều biến động và bất ổn: “được đánh dấu bằng các cuộc khủng hoảng đa chiều, kéo dài - liên quan đặc biệt đến những hậu quả nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học, xung đột vũ trang, hiểm họa thiên nhiên, đô thị hóa không kiểm soát, mô hình phát triển không bền vững, cũng như sự xói mòn xã hội dân chủ - đặc biệt dẫn đến sự gia tăng nghèo đói, bất bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và sự chia rẽ ngày càng tăng trong việc tiếp cận các công nghệ kỹ thuật số (UNESCO 2022) thì việc “kêu gọi, hơn bao giờ hết, tái đầu tư vào vai trò chuyển đổi của văn hóa trong các chính sách công, để thực hiện đầy đủ các quyền cơ bản của con người” là vô cùng quan trọng và cần được đánh dấu như một bước ngoặt lịch sử trong phản ứng toàn cầu của nhân loại đối với vị thế, vai trò của văn hóa. Nhiều học giả cũng cho rằng, cần xác định văn hóa có ý nghĩa nhiều hơn chỉ là sự tăng trưởng kinh tế, vốn được định lượng hóa và hướng tới lợi nhuận, mà văn hóa còn phải là sự tổng hoà của sức khỏe, hạnh phúc và thịnh vượng (well-being), là tình bằng hữu, qua đó góp phần khẳng định vai trò của nhà nước cam kết mạnh mẽ về hạnh phúc và chất lượng sống của người dân1.
Như vậy, từ nguyên tắc đại chúng hóa của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với những vấn đề đang đặt ra của thời đại về nâng cao khả năng tiếp cận và sáng tạo của nhân dân, bảo đảm văn hóa như một loại hàng

_____________

1. Justin, O’Connor, Đại học Nam Ôxtrâylia (University of South Australia): “Góc nhìn toàn cảnh: Xây dựng lại một cách tốt hơn hay là bước ngoặt lịch sử? Các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo và phát triển bền vững trong thập kỷ tới”, trong Hội thảo “Đánh giá 5 năm thực hiện chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa 2016-2021” do Viện Văn học nghệ thuật quốc gia Việt Nam phối hợp với Văn phòng UNESCO tại Việt Nam, UN-Habitat, Sở Văn hóa thông tin Hà Nội và Bảo tàng Hà Nội tổ chức ngày 12/9/2022 tại Hà Nội.
hóa công, bảo đảm tính gắn kết và bao hàm của văn hóa vẫn là một dòng chảy tiếp nối, liên tục, có tính cập nhật, bức thiết trong thời đại ngày nay. Văn hóa vẫn cần được coi là một phần của các dịch vụ công cơ bản, được Nhà nước bảo đảm cung cấp cùng với các dịch vụ cơ bản khác như kết cấu hạ tầng vật chất, y tế, giáo dục, dịch vụ xã hội, hành chính công, v.v. cho quảng đại quần chúng nhân dân. Đây là quan điểm vẫn được nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia nhấn mạnh. Qua đó, nhằm bảo đảm quyền tiếp cận cao nhất của người dân đến văn hóa, từ đó để văn hóa đáp ứng được nhu cầu của xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đóng góp vào tiến bộ và công bằng xã hội hơn là chỉ chú trọng đến lợi nhuận, tăng trưởng kinh tế, cũng như việc sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không thể chỉ là đặc quyền của một vài tầng lớp có quyền lực và ưu trội trong xã hội. Đây là một sứ mệnh cao cả của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa cũng như của các quốc gia tiến bộ trên thế giới.
3. Nguyên tắc khoa học hóa trong văn hóa và những yêu cầu mới về sự phát triển
Khoa học công nghệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý và phát triển. Trong bối cảnh trước đây, Đảng ta đã nhận thức được vai trò của khoa học với phát triển văn hóa. Ngày nay, chúng ta càng nhận thức rằng phải xây dựng được kinh tế tri thức thì tăng trưởng kinh tế mới tốt và bền vững được. Trong bối cảnh kinh tế thế giới đã dịch chuyển từ sản xuất công nghiệp sang sản xuất dựa trên sự sáng tạo và tri thức, cùng với sự thay đổi như vũ bão của khoa học công nghệ và môi trường số hóa, rất nhiều của cải được tạo ra từ kinh tế tri thức mà kinh tế kinh tế số là một phần trong đó. Bên cạnh vốn, tài nguyên môi trường thì người lao động khi có trình độ trí tuệ sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất một cách thông minh hơn, tiết kiệm tài nguyên hơn và bền vững hơn. Gần đây nhất, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một thay đổi mang tính cách mạng về khoa học và công nghệ đang diễn ra trên thế giới, dựa trên ba trụ cột chính là: kỹ thuật số; công nghệ sinh học và vật lý. Trong đó, công nghệ thông tin được sử dụng là nòng cốt cho sự phát triển. Internet kết nối vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn (Bigdata), trí tuệ nhân tạo, công nghệ 3D, robot, sự chia sẻ thông tin dữ liệu và liên thông các hệ thống thông tin đang tạo ra những mối quan hệ xã hội và các tương tác mới chưa từng có trong quá khứ, đòi hỏi sự điều chỉnh, cập nhật của thể chế chính sách văn hóa với thực tế phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Triển vọng và tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với các hoạt động văn hóa đang đặt ra nhiều vấn đề “nóng” mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng, trong đó phải kể đến hiệu quả trong khai thác và quản lý tài nguyên văn hóa gắn với phát triển bền vững.
Trên tinh thần một cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Đảng, nội hàm của khái niệm “khoa học hoá” trong đề cương dù mới chỉ được phác thảo ở mức sơ khai, nhưng đã phác thảo những ý cơ bản nhất để từ đó trong các cương lĩnh tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhận thức đúng đắn được vai trò quan trọng của việc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp đổi mới và tham gia giải quyết các vấn đề lớn của xã hội, để đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững hơn, vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc1.
*
*       *
Với những giá trị lịch sử bền vững, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một điểm xuất phát cho những tranh luận và hành động cần thiết. Ba nguyên tắc của Đề cương đã được chứng minh là những nguyên tắc căn cốt có tính ứng dụng trong công tác hoạch định chính sách văn hóa của Việt Nam trong các bối cảnh khác nhau. Đề cương đã truyền cảm hứng và gợi mở cho các thế hệ hôm nay và mai sau về những vấn đề cần thiết phải bổ sung trong kế thừa và phát triển, về việc ứng dụng linh hoạt các phương châm then chốt của Đề cương vào những vấn đề mới trong tiến trình lịch sử văn hóa của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu và áp lực của những vấn đề mới, đương đại từ thực tiễn ngày càng gia tăng, trong đó có nhiều thách thức chung của mỗi quốc gia và toàn nhân loại như: nguy cơ cạn kiệt về tài nguyên, nguy cơ bất bình đẳng xã hội, những hiểm họa do biến đổi khí hậu gây ra như thiên tai, dịch bệnh, suy giảm đa dạng sinh học; nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hóa và những áp lực cần tiếp tục đổi mới, sáng tạo trong bối cảnh khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Bối cảnh thay đổi và những thách thức này đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học và các nhà thực hành trên mọi lĩnh vực cần soi rọi lại những nguyên tắc của Đề cương, cùng với một tầm nhìn và kiến thức sâu rộng, toàn diện và hệ thống hơn về những vấn đề của thời đại, từ đó để có thể bổ sung, thích ứng kịp thời, vượt qua và dẫn dắt quá trình phát triển văn hóa Việt Nam một cách sáng tạo và linh hoạt, đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

_____________

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr.127-134 và tr.340.

TBT
Số lượt xem:840
line_weight BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
TRANG THÔNG TIN SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH KON TUM
Cơ quan chủ quản: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Kon Tum
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Văn Bình - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kon Tum.
Địa chỉ: Tầng 3, Toà nhà A, Trung tâm hành chính  hội nghị tỉnh Kon Tum, phường Thống Nhất, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; Điện thoại: 0260.3862538 ; Fax: 0260.3861497; Email: svhttdl@kontum.gov.vn.
2610 Tổng số người truy cập: 2385 Số người online:
TNC Phát triển: